(Trích Luận Tịnh độ)
Người dịch: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chơn
NHÀM CHÁN TA-BÀ
Là người trí, trong đêm dài thanh vắng, hãy nên ngồi kiết già suy nghĩ:
- Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ; không kinh, không lo, lòng không mảy may sợ hãi?”.
Lại suy nghĩ:
- Thân này của ta hôm nay đang ở vào địa vị nào? Ba nghiệp thân, khẩu, ý đang làm việc gì đây? Bỗng nhiên, vô thường chợt đến thì ta sẽ sanh vào cõi nào? Lúc bấy giờ, những ác nghiệp từ thời vô thỉ đến hôm nay tranh nhau đưa ta đến chỗ thọ sanh. Trong chốc lát ta sẽ trở thành chúng sanh trong địa ngục, có được bao nhiêu thời gian an ổn mà nằm ngủ trên giường.
Vô lượng vô biên chư Phật và Bồ-tát quá khứ đã xuất hiện ở thế gian, độ thoát vô lượng chúng sanh. Lúc ấy ta đến-đi chốn nào mà không gặp Phật và được Ngài giáo hóa? Đó là do từ vô thỉ đến hôm nay, ta không cung kính Tam Bảo, không gần gũi người lành, không nghe theo lời của thiện tri thức; nên luôn ở trong ba đường ác, mà không được gặp chư Phật. Tịnh độ ở mười phương không khổ, không phiền; vì sao ta lại không được sanh về, mà phải ở mãi trong chốn uế trược quá nhiều khổ não này?
Thân của ta hôm nay thật là khó được, nhưng dễ mất. Kinh Niết-bàn ghi: “Thân người khó được như đất trên móng tay, thân ở trong ba đường ác thì dễ được, nhiều như đất trên đại địa”. Từ vô thỉ đến hôm nay ta đã trải qua vô lượng kiếp thọ thân. Trong mỗi một kiếp số như vậy, lại thọ vô lượng thân. Trong mỗi một thân như vậy, lại tạo nghiệp nhiều như hạt bụi. Trong mỗi một nghiệp ác lại chiêu cảm vô lượng ác báo. Trong mỗi một ác báo như vậy chịu vô lượng khổ. Thế thì cũng không thể nào tính đếm được những nỗi khổ ấy. Những nỗi khổ như thế, là do ta ngu si vô trí, không nghe lời của thiện tri thức dạy bảo. Quá khứ ta đã thọ thân địa ngục, hiện tại ta đang thọ thân địa ngục và tương lai ta cũng sẽ thọ thân địa ngục, chưa từng bao giờ ngừng dứt. Hôm nay, thân này của ta đây, từ khi thọ sanh cho đến nay luôn vì tìm cầu thức ăn, áo mặc. Nếu là người thế gian thì lo nuôi sống vợ con. Nếu là hàng xuất gia thì luôn cầu danh, tìm lợi, thường tạo những ác nghiệp. Những ác nghiệp này, nếu nhẹ thì cảm báo đọa lạc 500 đời, nặng thì trải qua nhiều kiếp.
Nếu hôm nay chúng ta không phát tâm Bồ-đề hổ thẹn sám hối, một khi đã rơi vào đường ác thì vĩnh viễn không có ngày ra khỏi. Trong một sớm một chiều, ta sẽ rơi vào lò lửa, vạc dầu sôi, núi đao, rừng kiếm trăm kiếp, nghìn kiếp thọ tất cả nỗi khổ đau nặng nề và vĩnh viễn. Quá khứ chúng ta đã chịu những nỗi khổ về thân tâm, vị lai chúng ta cũng sẽ chịu khổ như thế, không có giới hạn, khó bỏ, khó lìa mà không tự biết. Phàm phu như thế thật là đáng thương xót! Người hiểu biết suy như vậy, nên khởi tâm lo sợ. Đâu có được an nhiên, cố ý buông lung thân tâm mà không tự xét biết!”.
Ta lại nên suy nghĩ:
- Thân của ta hôm nay phước mỏng, căn cơ thì chậm lụt, sanh vào thời sau Đức Phật Thích-ca và trước thời Đức Phật Di-lặc. Như vậy, chẳng phải do quá khứ ta đã kiêu mạn, buông lung, không cung kính Tam bảo, không nghe lời dạy của thiện tri thức, luôn luôn ở trong ba đường ác và nơi tám nạn, ngu si vô trí sao? Lại nữa, thân này của ta hôm nay, trên thì xem thường Tam Bảo, dưới thì khinh miệt người lành, không nghe lời của thiện tri thức. Vậy thì đời vị lai làm sao ta có thể gặp được Tam bảo sanh, vào cõi lành?
Lại nữa, thân này hôm nay dù muốn tu đạo, thì cũng không thể nào an ổn. Bởi vì, trụ ở cõi Ta-bà này, mạng người thì ngắn ngủi, ác tri thức thì rất nhiều, lại thêm suốt đời cứ chăm lo cái ăn, cái mặc chẳng đủ. Hoặc bị vua quan bức bách, hoặc bị người khác xem thường, hoặc bị người khác hủy báng, hoặc luôn luôn bị người khác quấy rối không được an ổn, vừa khởi một chút thiện tâm thì liền lui sụt. Lại nữa, thân này là do 36 vật bất tịnh tạo thành, chín lỗ thường tiết ra những chất hôi dơ, giống như nhà xí, thật chẳng đáng có gì để ưa thích. Lại có nỗi khổ về sanh, nỗi khổ về già, nỗi khổ về bệnh, nỗi khổ về cái chết, nỗi khổ vì yêu thương xa lìa, nỗi khổ vì oán thù gặp gỡ, nỗi khổ về mong cầu không thỏa mãn, nỗi khổ vì ngũ ấm lẫy lừng. Những nỗi khổ như thế cứ đeo đuổi mãi thân ta.
Người hiểu biết nên tự quán sát thân mình: “Thân này như oan gia, như đống phân. Đối với nhà cửa, giường chiếu mền mùng thì khởi ý niệm như là mồ mã, như những tấm da người. Đối với thức ăn thức uống thì khởi tưởng như giòi bọ, như trùng dơ, như nước nhơ uế. Đối với vợ con quyến thuộc thì nên khởi tưởng như là La-sát, như ác quỷ. Nếu tâm này có thể suy nghĩ như vậy, thì nên sanh ý tưởng vô cùng nhàm chán thân này. Nguyện đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn xa lìa, không thọ thân này, không ở chung với thân này. Bởi thân này là oan gia của ta, nó luôn dẫn ta vào trong ba đường ác, có người trí nào mà thích thân này đâu? Như kinh Di giáo từng dạy: “Thân này nên buông xả, đó là vật tội ác, chỉ tạm gọi là thân. Thân này luôn chìm đắm trong biển lớn sanh già bệnh chết. Có người trí nào từ bỏ thân này mà không vui thích!”.
ƯA THÍCH TỊNH ĐỘ
Người trí lại suy nghĩ:
Thân này của ta hôm nay sanh vào thời kì 500 năm lần thứ sáu sau khi Thế Tôn vào Niết-bàn. Tất cả Thánh nhân đã ẩn hết. Dù muốn tu đạo, thì đây cũng không phải là thời gian thích hợp để tu định-huệ, mà chính là lúc nên sám hối, niệm Phật. Như trong kinh đã dạy: “Đức Phật A-di-đà bạt mái chèo từ bi, cỡi con thuyền đại nguyện cứu vớt tất cả chúng sanh đau khổ. Nếu người nào một lòng niệm Phật A-di-đà, thì trong mỗi một niệm như vậy sẽ diệt được tội trong 80 ức kiếp sanh tử. Sau khi mạng chung được sanh về cõi tịnh, hưởng thụ mọi niềm vui, đạt được năm thần thông, chứng đắc được giai vị Bất thoái”. Lúc bấy giờ, cõi báu rừng hoa tùy ý ngao du, viên âm thật tướng mặc tình nghe nhận. Trong đài hoa sen, rực rỡ thân vàng sắc tía; trên tòa Kim cang rạng ngời 32 tướng đại trượng phu. Bên thềm bảy báu ta quỳ dài hỏi pháp môn Bất nhị; trong ao nước tám công đức ta rửa rạch trần cấu vô minh. Y phục thì lụa là xứng thể; thức ăn thì trăm vị thơm ngon; đi thì sen xanh đỡ chân, ngồi thì hoa báu nâng thể. Cây lay động những cành lá lưu ly, rừng đong đưa những đóa hoa mã não. Hoa đẹp tỏa mùi hương thơm ngát, trái ngon rực sáng cả năm màu. Lan can được điêu khắc bằng bốn báu, mặt đất rực rỡ bởi bảy trân. Tiếng sáo, tiếng tiêu phát ra nghìn âm thanh vi diệu, lầu vàng gác ngọc hàm chứa muôn vạn sắc màu. Chim Bạch hạc, chim Khổng tước luôn diễn nói pháp năm căn. Chim Anh vũ, chim Xá-lợi thường tuyên dương Bát chánh đạo. Đức Phật A-di-đà thì tướng tướng rõ ràng, Bồ-tát Quán Thế Âm thì hảo hảo đầy đủ.
Những cảnh tượng như thế thật tuyệt diệu chẳng thể nghĩ bàn, ai nghe mà không sanh lòng ưa thích.
Trích dịch từ luận Tịnh độ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét