NGHI THỨC TỤNG NIỆM
(Dành riêng cho hành giả tu Chánh
hạnh vãng sanh Tịnh độ)
Thích Nguyên Chơn soạn dịch
(Tắm
gội và thay y phục sạch sẽ, đến trước tượng Đức A-di-đà, đứng trang nghiêm chắp
tay, lắng lòng, mắt chiêm ngưỡng tôn dung Ngài khoảng 15 giây, rồi lạy một lạy,
quỳ gối. Chủ lễ cầm ba nén nhang, chậm rãi, thiết tha đọc bài Nguyện hương)
[Nguyện hương]
Hương
trầm xông thơm ngát
Kết
thành áng mây lành
Đệ
tử với lòng thành
Cúng
dường Phật, Pháp, Tăng
Tín
nguyện lòng kiên cố
Niệm
Phật mãi tinh cần
Chánh
trợ nghiệp song hành
Bốn
tu, ba phước trọn
Hiện
đời không bệnh khổ
Lâm
chung chánh niệm an
Tam
Thánh thương đến rước
Tây
phương cảnh hiện tiền
Nam-mô
Hương Cúng Dường Bồ-tát (3 lần).
Đệ
tử chúng con hôm nay quỳ trước các Đức Phật Thế Tôn, chí thành dâng hương kính
bày tâm nguyện. Từ nhiều kiếp lâu xa, chúng con mãi trôi lăn trong các đường
dữ, bao lần đánh mất thân người. May thay kiếp này mới gặp lại, được nghe chánh
pháp, được biết năng lực danh hiệu và bản nguyện của Đức A-di-đà, chúng con
nhóm họp nơi đây tụng kinh, lễ niệm hồng danh Từ phụ, thực hành Tịnh nghiệp
vãng sanh.
Chúng
con một lòng khẩn thỉnh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni chứng minh, Đức Từ phụ A-di-đà
cùng các Đại Bồ-tát, các Hiền thánh tăng trong hải hội Liên Trì rủ lòng xót
thương gia hộ, khiến cho chúng con thân tâm an lạc, tội chướng, báo chướng, oán
chướng thảy dứt trừ, lòng tin càng bền vững, sức hành trì càng tăng, ý nguyện
càng thiết tha, ngõ hầu mai sau được sanh về cõi An Dưỡng.
Nam-mô
Chứng Minh Sư Bồ-tát Ma-ha-tát (3 lần)
(Đứng dậy cắm nhang vào lư rồi đọc
bài tán Phật và xướng lễ)
[Tán thán Phật]
Sắc
thân Như Lai đẹp
Trong
đời không ai bằng
Không
sánh, chẳng nghĩ bàn
Nên
nay con đảnh lễ
Sắc
thân Phật vô tận
Trí
tuệ Ngài cũng thế
Tất
cả pháp thường trú
Cho
nên con về nương
Sức
đại trí, đại nguyện
Độ
tất cả quần sanh
Khiến
bỏ thân nóng khổ
Sanh
cõi Tịnh mát vui
Con
nay sạch ba nghiệp
Quay
về và đảnh lễ.
[Đảnh lễ Phật]
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Thường Tịch Quang, A-di-đà Như Lai Pháp thân diệu thanh
tịnh cùng tất cả các Đức Phật.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Thật Báo Trang Nghiêm, A-di-đà Như Lai Báo thân vô lượng
tướng cùng tất cả các Đức Phật
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Phương Tiện Đồng Cư, A-di-đà Như Lai Ứng thân chân giải
thoát cùng tất cả các Đức Phật.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, A-di-đà Như Lai thân giới căn Đại thừa
cùng tất cả các Đức Phật.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, A-di-đà Như Lai thân hóa khắp mười
phương cùng tất cả các Đức Phật.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, Giáo hạnh lí ba kinh tuyên dương môn
Tịnh Độ, cùng tất cả các Tôn pháp.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, Quán Thế Âm Bồ-tát thân vạn ức tử kim
cùng tất cả các Bồ-tát.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, Đại Thế Chí Bồ-tát thân trí sáng vô
biên cùng tất cả các Bồ-tát.
-
Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát thân
trọn phần phước trí cùng tất cả Thánh chúng.
(Khai chuông mõ rồi quì tụng)
Hương
trầm quyện tỏa lư vàng
Xông
cùng pháp giới đạo tràng gần xa
Kết
thành mây báu sáng lòa
Kính
dâng hương nguyện thiết tha chí thành
Chư
Phật thấu biết lòng lành
Pháp
thân ứng hiện rõ rành chứng minh
Nam-mô
Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát (3 lần)
Chí
tâm sám hối
Đệ
tử chúng con và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ cho đến ngày nay bị
vô minh che đậy, nên điên đảo mê lầm; lại do sáu căn, ba nghiệp quen theo pháp
chẳng lành, phạm hết mười điều dữ, cùng năm tội Vô gián và tất cả những tội
khác, nhiều vô lượng vô biên nói không thể hết. Mười phương các Đức Phật thường
trụ nơi đời, pháp âm không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh
sáng sạch trong chiếu soi tất cả, lí nhiệm mầu thường trụ khắp cõi hư không.
Thế
mà chúng con từ bao kiếp đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy
chẳng nghe, chẳng hay chẳng biết. Vì nhân duyên đó, trôi mãi trong dòng sanh
tử, trải qua các đường ác trăm ngàn kiếp, không có lúc nào ra khỏi.
Kinh
ghi rằng: “Phật Tì-lô-giá-na Biến Nhất Thiết Xứ, cõi của Phật ở gọi là Thường
Tịch Quang”. Cho nên biết, tất cả pháp đều là Phật pháp mà con không hiểu lại
trôi theo dòng vô minh. Vì thế, trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh tịnh, trong
cảnh giải thoát mà sanh lòng ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới sửa đổi ăn năn,
thành kính đối diện Thế Tôn mà tỏ bày sám hối, khiến cho tất cả những tội nặng
do ba nghiệp, sáu căn của chúng con và chúng sanh gây tạo từ quá khứ, hoặc hiện
tại, hay vị lai, hoặc do chính mình gây tạo, hoặc bảo người gây tạo, hay là
thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc
chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che dấu hoặc chẳng che dấu, thảy
đều rốt ráo thanh tịnh.
Chúng
con sám hối rồi, sáu căn ba nghiệp hoàn toàn trong sạch, không mảy may lỗi lầm,
căn lành tu tập cũng trọn thanh tịnh. Tất cả đều hồi hướng để trang nghiêm cõi
Tịnh, cùng chúng sanh đồng sanh nước An Dưỡng.
Nguyện
Đức A-di-đà Phật thường đến hộ trì, khiến cho căn lành chúng con hiện tiền tăng
trưởng, chẳng mất nhân lành Tịnh độ. Đến giờ lâm chung thân an niệm chánh, xem
nghe rõ ràng, tận mắt thấy Đức A-di-đà Phật và các Thánh chúng tay cầm đài sen
tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng nháy mắt sanh đến trước Phật, đủ đạo hạnh Bồ-tát,
độ tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo.
Chúng
đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin chí thành đảnh lễ.
-Nhất
tâm đảnh lễ: Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Như Lai, biến
pháp giới Tam bảo. (Đứng dậy lạy 3 lạy)
(Lạy xong, đồng ngồi tụng kinh
A-di-đà)
Nam-mô
Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)
[KỆ
KHAI KINH]
Pháp
Phật cao vời, lại thẳm sâu
Trăm
ngàn vạn kiếp khó tìm cầu
Nay
con nghe thấy xin trì tụng
Nguyện
thấu Như Lai nghĩa nhiệm mầu
Nam-mô
Liên Trì Hải hội Phật Bồ-tát (3 lần)
KINH PHẬT NÓI VỀ ĐỨC A DI ĐÀ
Đúng
thật như thế, chính tôi được nghe. Có một thời Đức Phật và một ngàn hai trăm
năm mươi vị Tì-kheo đồng cư trú ở tịnh xá Kì-hoàn. Trong đó có những vị đệ tử
ưu tú, là các bậc A-la-hán mà mọi người đều quen biết, như ngài Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, Ca-diếp, Ca-chiên-diên, Câu-hy-la, Ly-bà-đà, Châu-lợi
Bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề,
Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Kiếp-tân-na, Bạt-câu-la và A-nậu-lâu-đà.
Lại cũng có các vị Đại Bồ-tát như Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, A-dật-đa,
Càn-đà-ha-đề, Thường Tinh Tấn, cùng vô số chư thiên như Thích-đề-hoàn-nhân v.v…
đều nhóm họp.
Lúc
bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất rằng: “Từ đây đi về phương Tây, cách khoảng
mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, Đức Phật A-di-đà, giáo chủ
cõi ấy hiện đang thuyết pháp”.
Này
Xá-lợi-phất! Vì dân chúng trong cõi nước ấy không có các nỗi khổ, chỉ toàn là
niềm vui, cho nên được gọi là Cực Lạc.
Này
nữa, Xá-lợi-phất, vây quanh cõi nước ấy có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng,
bảy lớp hàng cây, tất cả đều được làm bằng bốn thứ báu, vì vậy được gọi là Cực
Lạc.
Này
nữa, Xá-lợi-phất, ở nước Cực Lạc có hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám đặc
tính. Dưới đáy hồ toàn là cát vàng; bốn bên hồ có những con đường được làm bằng
vàng, bạc, lưu ly và pha lê; bên các con đường ấy lại có vô số lâu đài cũng
được xây dựng và trang trí bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và
mã não. Sen trong các hồ lớn như bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen
vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang
trắng, hương sen tỏa ra thơm ngát và tinh khiết.
Xá-lợi-phất!
Nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những cảnh vật tuyệt diệu như thế.
Này
nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Phật ấy, nhạc trời luôn trỗi, đất bằng vàng ròng. Mỗi
ngày sáu lần mưa hoa mạn-đà-la. Dân chúng nước ấy, mỗi buổi sáng thường lấy giỏ
chứa đầy các đóa hoa tươi đẹp, mang đi cúng dường mười vạn ức Đức Phật ở các
cõi khác. Đến giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi kinh
hành. Xá-lợi-phất, nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những điều tuyệt diệu
như thế.
Này
nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Cực Lạc, luôn có những loại chim nhiều màu sắc như Hạc
trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già và Cộng mạng. Những loài
chim này, ngày đêm sáu thời, thường hót lên những thanh âm hòa nhã. Âm thanh ấy
diễn bày các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần, bát thánh đạo phần... Chúng
sanh nghe được những pháp âm như thế đều niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.
Xá-lợi-phất,
các loài chim ấy không phải do nghiệp báo sanh ra. Tại sao? Vì ở nước Phật kia
không có ba nẻo đường tăm tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Xá-lợi-phất! Ở
nước ấy danh từ “ác đạo” còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo. Những
loài chim kia đều do Phật A-di-đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm
được lưu truyền rộng khắp.
Xá-lợi-phất!
Ở nước Phật ấy, mỗi khi có gió nhẹ thổi đến, các hàng cây và các màn lưới châu
báu lay động, phát những âm thanh tuyệt diệu, giống như trăm ngàn nhạc khí cùng
lúc trỗi lên. Chúng sanh nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia thì đều niệm
Phật, niệm Pháp và niệm Tăng. Xá-lợi-phất! Nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng
những cảnh diệu kì như thế.
Xá-lợi-phất!
Ông nghĩ sao? Vì sao Đức Phật kia có hiệu là A-di-đà? Xá-lợi-phất! Vì Đức Phật
ấy có ánh sáng vô lượng, chiếu soi đến tất cả các cõi nước trong mười phương mà
không hề bị chướng ngại. Vì vậy nên Ngài được gọi là A-di-đà.
Hơn
nữa, Xá-lợi-phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và của chúng sanh trong nước Ngài
thật vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, vì vậy cho nên Ngài có danh hiệu là
A-di-đà.
Xá-lợi-phất!
Từ khi Phật A-di-đà thành đạo đến nay tính ra đã mười kiếp. Này nữa,
Xá-lợi-phất! Số đệ tử Thanh văn đã chứng quả A-la-hán của Đức Phật ấy nhiều vô
lượng, không thể dùng toán học tính biết được. Số đệ tử Bồ-tát của Ngài cũng
nhiều như thế.
Này
Xá-lợi-phất! Nước Phật kia được trang nghiêm bằng những việc diệu kì như thế.
Này
nữa Xá-lợi-phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều trụ ở giai vị Bất
thoái chuyển. Số lượng Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ trong đó rất nhiều, không thể
tính đếm được, chỉ có thể dùng danh từ vô số a-tăng-kỳ để diễn tả mà thôi.
Xá-lợi-phất!
Tất cả chúng sinh khi nghe nói đến nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về
nước ấy. Vì sao? Vì sanh về nước ấy sẽ được gần gũi với rất nhiều bậc thiện
nhân cao đức.
Xá-lợi-phất!
Không thể với điều kiện một ít phước đức căn lành mà được sinh về cõi ấy. Vì
vậy, Xá-lợi-phất! Nếu người nào muốn sinh Tịnh độ, khi nghe đến Phật A-di-đà
phải liền ghi nhớ, tụng niệm danh hiệu Ngài, không để gián đoạn, hoặc trong
vòng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày đạt
đến trạng thái nhất tâm bất loạn. Đến khi lâm chung, người ấy sẽ được thấy Phật
A-di-đà và các vị Thánh cõi kia hiện ra trước mặt. Lúc lìa đời, tâm ý người ấy
không điên đảo tán loạn, được sinh ngay về nước Cực Lạc.
Xá-lợi-phất!
Vì thấy được lợi ích lớn lao này, nên Như Lai muốn nói rằng nếu người nào nghe
được những lời này, hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.
Xá-lợi-phất!
Như hiện tại Như Lai đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn
của Phật A-di-đà thì tại phương Đông có các vị Phật A-súc-bệ, Phật Tu-di Tướng,
Phật Đại Tu-di, Phật Tu-di Quang, Phật Diệu Âm và các vị Phật khác, nhiều như
số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày
tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời
thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị
Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm[1] này”.
Xá-lợi-phất,
tại phương Nam có các vị Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại
Diệm Kiên, Phật Tu-di Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn và các vị Phật khác nhiều
như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày
tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời
thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị
Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất,
tại phương Tây có các vị Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng
Tràng, Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang và các vị
Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của
mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới
và nói lời thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này.”
Xá-lợi-phất,
tại phương Bắc có các vị Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật
Nhật Sanh, Phật Võng Minh và các vị Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị
nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao
trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả
chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư
Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất,
tại phương Dưới có các vị Phật Danh Quang, Phật Đạt-ma, Phật Pháp Tràng, Phật
Trì Pháp và các vị Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi
tại quốc độ của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên
đại thiên thế giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin
vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất,
tại phương Trên có các vị Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật
Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta-la
Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu-di Sơn và
các vị Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ
của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế
giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng
Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất!
Ông nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức
Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?
Sở
dĩ như thế, là vì những người nào nghe được kinh này mà thọ trì và nghe được
danh hiệu Phật A-di-đà rồi một lòng chuyên niệm thì những vị ấy nhất định được
các Đức Phật giúp đỡ và bảo vệ, tất cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột,
không còn bị thoái chuyển. Vì vậy cho nên các ông hãy tin vào lời Như Lai đang
nói, và cũng là lời các Đức Phật khác đang nói.
Xá-lợi-phất!
Nếu có người đã phát nguyện thì đã sanh về nước ấy; đang phát nguyện thì đang
sanh về nước ấy; sẽ phát nguyện thì sẽ sanh về nước ấy. Tất cả đều được không
lui sụt đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì thế, nếu người nào có lòng tin
thì nên phát nguyện sanh về cõi nước của Ngài.
Xá-lợi-phất,
trong khi Như Lai đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của các Đức Phật,
thì các Đức Phật cũng đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Như Lai
rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi Ta-bà đầy dẫy năm
yếu tố ô nhiễm là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng
trược mà Ngài có thể chứng đắc được quả vị giác ngộ tối thượng và còn tuyên
thuyết cho chúng sinh thế gian nghe những pháp môn rất khó tin nhận như thế.”
Xá-lợi-phất!
Ông nên biết rằng, Như Lai sống trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt
tới được quả vị giác ngộ vô thượng, lại còn giảng nói cho chúng sanh pháp môn
rất khó tin nhận này, đó là một việc làm thật là khó khăn."
Nghe
Phật nói kinh này, Xá-lợi-phất, các vị tì-kheo, trời, người, a-tu-la, v.v... ai
cũng vui mừng, phát lòng tin tưởng, tiếp nhận, lễ Phật và trở về trú xứ của
mình.
[KỆ NGUYỆN SANH]
Nguyên bản Phạn: Bồ-tát Thế Thân
soạn.
Hán dịch: Tam tạng Bồ-đề-lưu-chi.
Kính
bạch Đức Thế Tôn!
Hôm
nay con một lòng,
Kính
lễ khắp mười phương
Vô
Ngại Quang Như Lai,
Nguyện
sanh nước Cực Lạc.
Con
theo nghĩa chân thật,
Của
kinh Vô Lượng Thọ
Thuyết
Kệ nguyện, tổng gom,
Tương
ưng lời Phật dạy.
Quán
tướng thế giới kia,
Đẹp
hơn cả ba cõi.
Rỗng
lặng như hư không,
Rộng
lớn không bờ mé.
Chánh
đạo đại từ bi,
Sanh
căn lành xuất thế
Ánh
sáng sạch tròn đầy,
Như
mặt trời, gương sáng
Gồm
đủ đặc tánh quí,
Và
mọi vật trang nghiêm.
Ánh
sáng sạch rực rỡ,
Soi
chiếu khắp thế gian
Cỏ
công đức bảo tánh,
Mềm
mại xoay về phải
Người
chạm tâm an vui,
Hơn
cả Chơn-lân-đà.
Ngàn
vạn hoa quí báu,
Phủ
kín mặt ao hồ
Gió
nhẹ lay cánh hoa,
Vô
lượng tia sáng chuyển.
Từ
cung điện lầu gác,
Nhìn
thông thấu mười phương.
Cây
cối nhiều màu sắc,
Hàng
rào quí vây quanh.
Vô
lượng báu đan xen
Hư
không lưới giăng phủ.
Các
linh báu hòa reo,
Diễn
nói pháp âm mầu.
Mưa
hoa và y phục,
Hương
thơm xông cùng khắp.
Huệ
Phật như mặt trời
Phá
tăm tối thế gian.
Phạm
âm mầu vang khắp,
Mười
phương thảy đều nghe.
A-di-đà
Chánh Giác,
Pháp
vương khéo giữ gìn.
Bảy
tịnh hoa Như Lai,
Từ
hoa Chánh giác sanh.
Ưa
thích vị Phật pháp,
Tam-muội
là thức ăn.
Xa
lìa khổ thân tâm,
Mãi
mãi được an vui.
Toàn
căn lành Đại thừa,
Không
các loại cơ hiềm.
Hàng
nữ nhân, căn khuyết,
Nhị
thừa không sanh về.
Ước
nguyện của chúng sanh,
Thảy
đều được đầy đủ.
Cho
nên con nguyện sanh,
Về
cõi A-di-đà.
Vô
lượng Bảo vương hoa
Làm
đài tòa tịnh diệu.
Ánh
sáng tỏa một tầm,
Tôn
dung vượt quần sanh.
Âm
thanh mầu của Phật,
Mười
phương đều nghe biết.
Đồng
đất nước lửa gió,
Hư
không, vô phân biệt.
Chúng
trời người bất động,
Từ
biển trí tịnh sanh.
Như
Tu-di Sơn vương,
Không
núi nào hơn được.
Các
chúng trời và người,
Đều
cung kính chiêm ngưỡng.
Sức
bản nguyện của Phật,
Ai
biết đều lợi ích.
Khiến
mau chóng thành tựu,
Biển
công đức báu lớn.
Nước
an lạc thanh tịnh,
Chuyển
bánh xe vô cấu.
Hóa
Phật và Bồ-tát,
Như
mặt trời trên không
Như
Tu-di bất động.
Ánh
sáng sạch trang nghiêm,
Chỉ
một niệm, cùng lúc
Chiếu
khắp các Phật hội.
Lợi
ích cả chúng sanh.
Trời
tuôn hương, hoa, nhạc
Cùng
y phục cúng dường.
Khen
ngợi công đức Phật,
Không
khởi tâm phân biệt.
Nơi
nào không công đức,
Phật
pháp và Tăng bảo
Con nguyện vãng sanh đến,
Giáo
hóa giống như Phật.
Con
tạo Nguyện kệ này,
Nguyện
gặp A-di-đà
Nguyện
cùng các chúng sanh,
Đồng
sanh nước An Lạc.
[KHEN
NGỢI PHẬT]
Phật
A-di-đà thân rực rỡ
Tướng
hảo ngời sáng tự trang nghiêm
Năm
Tu-di tựa tướng bạch hào
Bốn
biển lớn trong như mắt biếc
Trong
hào quang hóa vô số Phật
Vô
số Bồ-tát cũng hiện thân
Bốn
mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín
phẩm sen vàng lên bờ giác
Chí
thành lễ A-di-đà Phật
Nơi
phương Tây thế giới an lành
Nay
con xin phát nguyện vãng sanh
Cúi
xin Đức Từ Bi tiếp nhận.
Nam-mô
Tây phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi A-di-đà Phật
(Ngồi niệm hoặc vừa niệm vừa kinh
hành từ 30 phút đến một giờ hay nhiều hơn. Khi ngồi niệm, mắt nhìn vào tượng Đức
Phật A-di-đà; nếu nhắm mắt, hoặc ngồi xa hay bị che khuất thì cũng nên tưởng
hình Đức Phật trước mặt, đồng thời tâm duyên theo tiếng niệm, tai lắng nghe
thật rõ tiếng niệm của chính mình)
Nam-mô
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát (3 niệm)
Nam-mô
Đại Thế Chí Bồ-tát (3 niệm)
Nam-mô
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (3 niệm)
Nam-mô
Liên Trì Hải Hội Phật Bồ-tát (3 niệm)
(Sau khi niệm danh hiệu, đứng dậy
lạy Phật, Bồ-tát. Tất cả lắng nghe Chủ lễ xướng kệ và danh hiệu, hoặc cả đạo
tràng đồng xướng theo nhịp khánh. Xướng xong tất cả vừa thầm niệm vừa lạy. Tư
thế lạy phải thật khoan thai, không hấp tấp, vội vàng, giữ hơi thở đều đặn.
Trán, hai cánh tay đến bàn tay, hai đầu gối phải sát đất. Từ lúc trán vừa chạm
đất đến lúc ngẩng lên, liên tục niệm 10 danh hiệu A-di-đà Phật)
Tây
phương giáo chủ A-di-đà
Bốn
tám nguyện lớn cứu Ta-bà
Chín
phẩm đưa người sang bờ giác
Thệ
độ chúng sanh vượt ái hà (1 lần)
-
Nhất tâm đảnh lễ: Tây phương Giáo chủ Đại Từ Đại Bi A-di-đà Phật
(lễ 30 phút cho đến một giờ)
Y
trắng đắp thân, đội mũ hoa
Tầm
thanh cứu khổ hiện Ta-bà
Cành
dương, bình nước là diệu pháp
An
nhiên trợ hóa, vẻ từ hòa (1 lần)
-
Nhất tâm đảnh lễ: Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm bồ-tát (3 lạy)
Thân
tướng đoan nghiêm chẳng thể lường
Thiên
y nhẹ mỏng phất diệu hương
Pháp
tòa vòi vọi hương hoa khắp
Cất
bước chân đi, động mười phương (1 lần)
-
Nhất tâm đảnh lễ: Đại Hùng Đại Lực Đại Thế Chí bồ-tát (3
lạy)
Vô
biên tịnh chúng khắp hư không
Rực
sáng khôn cùng, chẳng hành tung
Từ
bi tiếp dẫn về cõi Tịnh
Có
duyên ngay đó được tương phùng (1 lần)
-
Nhất tâm đảnh lễ: Phước Trí Nhị Nghiêm Thân Thanh Tịnh Đại Hải Chúng bồ-tát (3
lạy)
Hiền
thánh được thỉnh thảy quang lâm
Đại
chúng càng sanh khát ngưỡng tâm
Nương
tựa sức từ cùng khen ngợi
Đồng
thanh xướng lễ, thảy tu nhân (1 lần)
-
Nhất tâm đảnh lễ: Liên Trì Hải Hội Phật Bồ-tát (3 lạy)
(Đảnh lễ xong, quỳ tụng bài sám Khể
Thủ)
[SÁM KHỂ THỦ]
Cúi
đầu đảnh lễ Đại Đạo Sư,
Dẫn
dắt chúng sanh về cõi Tịnh
Con
nay phát nguyện, nguyện vãng sanh
Xin
Đức Từ Bi thương tiếp nhận.
Đệ
tử chúng con, vì cả bốn ân, khắp cùng ba cõi, hết thảy chúng sanh trong toàn
pháp giới, cầu đạo Bồ-đề, Nhất thừa vô thượng, chuyên tâm trì niệm A-di-đà
Phật, danh thâu muôn đức, mong sanh Tịnh độ.
Nhưng
vì chúng con phước mỏng nghiệp dày, chướng sâu huệ cạn, tâm nhiễm dễ tăng, đức
Tịnh khó thành. Nay đối trước Phật, năm vóc thiết tha, một lòng bày tỏ, chí
thành sám hối. Con và chúng sanh, từ đời vô thỉ cho đến hôm nay, chẳng biết tâm
này vốn thường thanh tịnh, vọng khởi tham dục, sân hận si mê, nhiễm ô ba
nghiệp, tạo vô lượng tội, kết vô biên oán. Những tội như thế, nguyện đều tiêu trừ. Từ nay về sau, chúng con lập nguyện, xa lìa pháp ác, lại không tạo thêm,
siêng tu Thánh đạo, thệ không lui sụt, thệ thành Chánh giác, thệ độ chúng sanh.
Đức
A-di-đà dùng sức từ bi và sức đại nguyện, chứng biết lòng con, thương tưởng đến
con, gia hộ cho con. Để lúc Thiền quán, hoặc trong giấc mộng, được đấng cha
lành, rưới nhuận cam lồ trên đảnh của con, phóng ánh sáng lành chiếu đến thân
con, duỗi cánh tay vàng xoa đầu chúng con, hoặc dùng y báu đắp thân thể con,
khiến cho tội chướng từ đời vô thỉ chóng tự dứt trừ, căn lành tăng trưởng,
phiền não chóng không, vô minh chóng phá, diệu tâm viên giác bỗng nhiên khai
ngộ, cõi Thường Tịch Quang luôn được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, tự biết giờ
khắc, thân không bệnh khổ ách nạn, tâm không tham luyến mê lầm, toàn thân thư
thái, chánh niệm hiện tiền, ung dung bỏ thân, như vào Thiền định.
Ngay
lúc bấy giờ Từ phụ Như Lai cùng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, tất cả Thánh chúng
phóng quang tiếp đón, đưa tay dắt dìu, lại thêm vào đó lầu gác tràng phan, nhạc
trời hương lạ cùng hiện đón nghinh, cảnh đẹp Tây phương, hiện bày trước mắt,
khiến cho chúng sanh, kẻ thấy người nghe, vui mừng cảm thán, phát tâm Bồ-đề.
Bấy giờ thân con ngồi đài kim cang, bay theo sau Phật, trong khoảng nháy mắt,
sanh vào hoa sen nơi ao bảy báu ở cõi Cực Lạc. Hoa nở thấy Phật và các Bồ-tát,
được nghe pháp âm, chứng Vô sanh nhẫn, trong khoảng sát-na hầu cận chư Phật,
được Phật thọ kí. Được thọ kí rồi, trong con thành tựu ba thân bốn trí, năm
nhãn sáu thông, vô lượng trăm ngàn môn đà-la-ni. Sau đó không lìa cõi nước An
Dưỡng, hiện trụ Ta-bà, phân thân vô số đến khắp mười phương, dùng sức thần
thông, tự tại vô ngại không thể nghĩ bàn, lập các phương tiện độ thoát chúng
sanh xa lìa phiền não, tâm được an tĩnh, đồng sanh Tây phương, trụ ngôi Bất
thoái.
Thế
gian vô tận, thế giới vô tận, nghiệp và phiền não tất cả vô tận, nguyện lớn của
con cũng thật vô tận. Nguyện dùng tất cả công đức lễ Phật, phát nguyện tu trì,
hồi hướng đến khắp các loài hữu tình, báo đáp thảy bốn ân, giúp nhuần cả ba
cõi, pháp giới chúng sanh đồng thành Phật đạo.
[HỒI HƯỚNG]
Tụng
kinh, lễ Phật, niệm hồng danh
Được
bao công đức, hướng chúng sanh
Xin
cho tất cả cùng chung hưởng
Mai
sau An Dưỡng nguyện viên thành
Ba
chướng dứt trừ phiền não hết
Tuệ
tâm sáng tỏ được tịnh thanh
Nguyện
ý sanh về miền Cực Lạc
Đài
vàng chín phẩm mẹ cha lành
***
Hoa
sen vừa nở thấy Như Lai
Chứng
đắc Vô sanh thật chẳng sai
Bồ-tát
bất thoái cùng tụ hội
Kết
thành bạn tốt ngự liên đài.
[PHỤC NGUYỆN]
- Nam mô
Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh
- Nam mô
Tây phương Cực lạc Thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật tác đại chứng minh
Hôm nay
chúng con một dạ chí thành trì tụng kinh A-di-đà, niệm Phật công đức. Cuối mong hồi hướng
cầu xin nguyện từ rộng lớn bình đẳng nhiếp thọ, từ bi gia hộ cho chúng Phật tử
hiện tiền, nội gia quyến thuộc, hết thảy oan gia trái chủ, tất cả pháp giới
chúng sanh: Chướng trước tự trừ, tật bệnh tiêu tan, không còn tai nạn, thân tâm
an lạc; phá sạch vô minh, dứt hết phiền não, tùy tâm đầy đủ; Chánh kiến khai
ngộ, diệu tâm sáng suốt, quy hướng Phật pháp, tin sâu nhân quả, tinh tấn tu
Phật; An trú bồ đề, xa lìa pháp ác, gần gũi bạn lành; Khéo tu các hạnh bồ tát,
mau chứng đạo quả bồ đề.
Ngưỡng cầu
từ phụ A-di-đà Phật, phóng quang tiếp dẫn tất cả vong linh trong toàn pháp
giới, hết thảy oán thân trái chủ, cửu huyền thất tổ, lịch đại tôn thân, chiến
sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, thập loại cô hồn, hữu danh vô vị hữu vị vô danh... đồng vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện cho
chúng con phút lâm chung không chướng ngại, biết trước giờ khắc, thân không
bệnh khổ, tâm không tham luyến, ý không điên đảo, luôn giữ chánh niệm, xem nghe
rõ ràng, được tận mắt thấy từ phụ A-di-đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, chư thánh
chúng bồ tát phóng quang tiếp dẫn chúng con vãng sanh về Cực Lạc quốc.
Phổ nguyện
âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình với vô tình, đồng trọn thành
Phật đạo.
Nam mô A-di-đà
Phật
[TỰ QUI]
Con
về nương tựa Phật
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thể
nhận được đạo lớn
Sớm
phát tâm vô thượng (1 lạy)
***
Con
về nương tựa pháp
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thấu
hiểu được giáo pháp
Trí
tuệ như biển lớn (1 lạy)
***
Con
về nương tựa Tăng
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thống nhiếp cả muôn loài
Tất
cả không ngăn ngại (1 lạy)
***
Phụ lục
LƯỢC TRUYỆN BỒ TÁT THẾ THÂN
Bồ-tát
vốn là một Đại luận sư Ấn Độ, người thành Phú-lâu-sa-phú-la, nước Kiền-đà-la,
Bắc Ấn Độ, là con thứ hai của Quốc sư Kiều-thi-ca dòng Bà-la-môn. Ngài rất
thông minh mẫn tiệp; đầu tiên Ngài học giáo nghĩa Tiểu thừa, luận biện sắc bén,
ngang dọc tự tại. Anh của Ngài là bồ-tát Vô Trước, một hôm bị bệnh, sai người
gọi Ngài đến, nhân đó khai thị giáo nghĩa Đại thừa. Bồ-tát Vô Trước bảo: “Trước
khi ta mất, ông nên đọc những kinh điển mà ta đã học”. Ngài liền xem kinh Hoa
Nghiêm, mới thấy được diệu nghĩa Pháp giới Tì-lô và biển hạnh nguyện Phổ Hiền.
Thế là Ngài khởi lòng tin sâu, đồng thời than rằng:
Hãy
dùng kiếm bén cắt đứt lưỡi của em để tỏ bày lỗi lầm tán dương Tiểu thừa!
Bồ-tát
Vô Trước bảo:
-Như
người do đất té ngã thì cũng nên nương nơi đất mà đứng dậy. Ngày xưa em dùng
lưỡi nầy để huỷ báng Đại thừa, thì hôm nay cũng nên dùng lưỡi nầy để tán dương
Đại thừa.
Nghe
lời anh, Bồ-tát soạn luận Thập Địa. Vào ngày bộ luận thành tựu, mặt đất chấn
động, ánh sáng chiếu soi rực rỡ. Sau đó Ngài soạn luận cho các bộ kinh Đại thừa
như: Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Pháp Hoa, Bát-nhã, Duy-ma, Thắng Man. Ngài còn soạn
Duy Thức luận, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích. Tất cả những tác phẩm do Ngài soạn, văn
nghĩa thật tinh diệu, hễ ai thấy nghe đều tin nhận. Cho nên, những người học
Đại-Tiểu thừa tại Thiên Trúc và các nơi đều lấy những tác phẩm của Ngài làm nền
tảng. Những Luận sư thuộc các bộ phái Tiểu thừa và ngoại đạo khi nghe đến tên
của Ngài đều kính sợ. Tuy thân ở nơi phàm mà tâm thật khó biết!
Cuối
Thu-Đinh Hợi (2007)
Nguyên
Chơn soạn dịch
[1] Kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công
Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm: Đây là tên gọi đầy đủ của kinh A-di-đà.
Nghĩa là kinh Khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Phật A-di-đà, và được
các Đức Phật trong sáu phương nhớ nghĩ, bảo vệ.
Nghe Pháp đàm giải thích Nghi thức tụng niệm dành riêng cho hành giả tu chánh hạnh vãng sanh Tịnh độ
Nghe Pháp đàm giải thích Nghi thức tụng niệm dành riêng cho hành giả tu chánh hạnh vãng sanh Tịnh độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét