I. NGUYỆN HƯƠNG
1. “Hương trầm xông thơm
ngát – Kết thành áng mây lành”
- Nghĩa hiển: Mùi hương trầm lan tỏa thơm ngát, như những áng mây
lành kết tụ trên hư không.
- Ý sâu: Trong Phật giáo, hương không chỉ là vật chất
(hương trầm), mà còn là biểu tượng cho hương công đức: hương giới,
hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến.
- Mở rộng: Khi dâng hương, không chỉ là đốt hương gỗ mà còn là tâm
hương: giữ giới thanh tịnh, định tâm sáng suốt, tuệ giác phát sinh.
Đây mới là hương mà chư Phật thực sự chứng tri.
2. “Đệ tử với lòng thành –
Cúng dường Phật, Pháp, Tăng”
- Nghĩa hiển: Người con Phật (đệ tử) đem tất cả lòng thành kính dâng
lên cúng dường Tam bảo.
- Ý sâu: Cúng dường Tam bảo không phải chỉ là hương, hoa, lễ
vật… mà quan trọng nhất là cúng dường tâm hành: tu tập, giữ giới,
hành thiện, giúp người.
- Mở rộng: Trong Kinh dạy, cúng dường lớn nhất là cúng dường
Chánh pháp: sống đúng theo lời Phật dạy. Vì vậy, tụng nguyện hương là
nhắc nhở ta rằng, dâng hương chỉ là phương tiện để khơi dậy tâm thành,
quan trọng là cúng dường bằng công phu tu tập.
3. “Tín nguyện lòng kiên cố
– Niệm Phật mãi tinh cần”
- Nghĩa hiển: Người đệ tử phát tâm vững chắc với tín – nguyện,
và kiên trì niệm Phật.
- Ý sâu: Pháp môn Tịnh độ trọng yếu ở ba yếu tố: Tín –
Nguyện – Hạnh.
- Tín: tin sâu nhân quả, tin có cõi Cực Lạc, tin nguyện lực
A-di-đà.
- Nguyện: phát tâm tha thiết cầu vãng sanh.
- Hạnh: chuyên trì danh hiệu, niệm Phật không gián đoạn.
- Mở rộng: “Tinh cần” nghĩa là chuyên tâm, siêng năng, không để
xen tạp. Đây là yếu tố quyết định sự thành tựu.
4. “Chánh trợ nghiệp song
hành – Bốn tu, ba phước trọn”
“Chánh trợ nghiệp song hành”
· Chánh nghiệp: Chính là xưng
niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà.
o Nếu chuyên tu thì có Chánh
hạnh: nhất tâm niệm Phật không gián đoạn, và Trợ hạnh:
lễ bái, đọc tụng, khen ngợi, cúng dường Đức Phật A-di-đà.
· Trợ nghiệp: Các việc thiện khác
như bố thí, trì giới, thiền định, phóng sanh, tu các công hạnh Bồ-tát… nhưng
quan trọng nhất là tất cả đều phải hồi hướng vãng sanh.
·
Như vậy, chánh nghiệp là gốc, trợ nghiệp là duyên, cả hai
hỗ trợ nhau, làm nền tảng vững chắc cho hành giả Tịnh độ.
“Bốn tu”: Là bốn cách tu không thể thiếu đối với
người niệm Phật.
1. Trường thời tu – Niệm Phật bền bỉ
lâu dài, từ ngày này sang ngày khác, cho đến trọn đời.
2. Cung kính tu – Niệm Phật với lòng
cung kính Tam bảo, cung kính kinh tượng, thiện tri thức và bạn đồng tu.
3.
Vô gián tu – Dòng niệm Phật
không bị gián đoạn, quên thì nhớ lại, giữ cho niệm liên tục như dòng nước chảy.
4. Vô dư tu – Tu không
xen tạp với pháp môn khác, một mực chuyên chí nơi A-di-đà Phật.
“Ba phước”: Là tư lương căn bản để sanh Tịnh độ, được
nói trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ:
1. Hiếu dưỡng phụ mẫu,
phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập các thiện nghiệp.
2. Thọ trì Tam quy, giữ
gìn giới cấm, không phạm oai nghi.
3. Phát tâm Bồ-đề, tin
sâu nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn hành giả.
Người niệm Phật nếu vừa giữ đủ ba phước, vừa hành bốn tu, lại
song hành chánh – trợ nghiệp, thì tín – hạnh – nguyện đầy đủ, quyết
định vãng sanh.
5. “Hiện đời không bệnh khổ
– Lâm chung chánh niệm an”
- Nghĩa hiển: Nguyện trong đời sống thường ngày được an ổn, ít bệnh
tật; khi lâm chung thì tâm chánh niệm sáng suốt.
- Ý sâu: Đây chính là quả báo tự nhiên của việc tu hành
đúng pháp. Người thường trì giới, niệm Phật, tích công đức, thì thân tâm
thường an lạc, bệnh khổ giảm thiểu. Quan trọng hơn, lúc lâm chung, nhờ tập
chánh niệm từ trước, nên có thể giữ tâm không loạn, được Phật tiếp
dẫn.
- Mở rộng: Lâm chung chánh niệm an chính là cửa ngõ quyết định vãng
sanh hay luân hồi. Cho nên, bài nguyện hương nhấn mạnh điều này như một
lời nhắc tu.
6. “Tam Thánh thương đến
rước – Tây phương cảnh hiện tiền”
- Tam Thánh: Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí.
- Ý sâu: Đây là biểu tượng cho ba năng lực cứu độ:
- A-di-đà: bản nguyện tiếp dẫn.
- Quán Âm: đại bi cứu khổ.
- Thế Chí: đại trí trợ niệm.
- Khi hành giả có tín-nguyện-hạnh
đầy đủ, lúc lâm chung sẽ cảm ứng cảnh giới Phật và Thánh chúng hiện
tiền.
7. “Nam-mô Hương Cúng Dường
Bồ-tát”
- Câu này là tán thán và hồi
hướng: dâng hương công đức lên các vị Bồ-tát hộ trì.
- “Hương Cúng Dường Bồ-tát” tượng
trưng cho tâm hương: dùng chính hạnh lành, tâm niệm thanh tịnh mà
cúng dường.
- Đây cũng là lời kết, chuyển
toàn bộ công đức tụng niệm thành hương tâm, dâng lên mười phương chư Phật
và Bồ-tát.
Tóm lại:
Bài Nguyện Hương không chỉ
là lời cầu nguyện, mà còn là bản tóm tắt cả tinh thần tu Tịnh độ:
- Dâng
hương công đức.
- Quy
y Tam bảo.
- Kiên
cố tín-nguyện.
- Chánh
trợ song tu.
- Đầy
đủ ba phước, bốn tu.
- Hiện
đời an lạc, lâm chung chánh niệm.
- Được
Tam Thánh tiếp dẫn, vãng sanh Cực Lạc.
II. KỲ NGUYỆN
1. Mở đầu phát nguyện
“Đệ tử chúng con hôm nay quỳ trước các Đức Phật Thế Tôn,
chí thành dâng hương tỏ bày tâm nguyện.”
· Ý nghĩa hiển: Người tụng quỳ
trước Phật, dâng hương, bày tỏ lòng chí thành. Hương ở đây không chỉ là hương
vật chất, mà chính là “hương tâm thanh tịnh” của niềm tin, nguyện lực, và hạnh
tu.
· Ý sâu: Dâng hương tức là dâng tâm
hương – hương của Giới, Định, Huệ; hương của Tín, Nguyện, Hạnh. Đây là
sự “khai tâm” để bước vào pháp hội Tịnh độ.
2.
Nhớ lại nhân duyên sanh tử
“Từ nhiều kiếp lâu xa, chúng con mãi trôi lăn trong các
đường dữ, bao lần đánh mất thân người.”
· Ý nghĩa hiển: Con người từ vô
lượng kiếp đã nhiều lần rơi vào các đường khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Được làm thân người là điều vô cùng hiếm hoi.
· Ý sâu: Câu này nhắc ta quán Khổ đế
– sanh tử luân hồi là khổ, mất thân người là khổ lớn, bởi không có thân người
thì khó tu hành. Đây cũng là để khởi tâm sợ sanh tử – chán Ta-bà.
3.
Nhân duyên thù thắng đời này
“May thay kiếp này mới gặp lại, được nghe chánh pháp,
được biết năng lực danh hiệu và bản nguyện của Đức A-di-đà, chúng con nhóm họp
nơi đây tụng kinh, lễ niệm hồng danh Từ phụ, thực hành Tịnh nghiệp vãng sanh.”
·
Ý nghĩa hiển: Trong đời này may
mắn gặp Phật pháp, biết pháp môn Tịnh độ, được nghe danh hiệu Phật A-di-đà. Đây
là nhân duyên hy hữu.
·
Ý sâu: Đây là Tín – Nguyện – Hạnh:
o Tin: tin vào năng lực
danh hiệu, tin vào bản nguyện Phật.
o Nguyện: nguyện vãng sanh.
o Hạnh: tụng kinh, lễ niệm,
tu Tịnh nghiệp.
o → Đây là đủ ba tư
lương để về Cực Lạc.
4.
Khẩn cầu chư Phật gia hộ
“Chúng con một lòng khẩn thỉnh Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
chứng minh, Đức Từ phụ A-di-đà cùng các Đại Bồ-tát, các Hiền thánh tăng trong
hải hội Liên Trì rủ lòng xót thương gia hộ...”
· Ý nghĩa hiển: Khẩn cầu chư Phật,
Bồ-tát, Hiền Thánh tăng chứng minh lòng thành, gia hộ cho chúng ta.
· Ý sâu: Đây là nương tựa Tam Bảo
(Phật – Pháp – Tăng) để phát khởi đạo tâm. “Hải hội Liên Trì” là pháp hội nơi
Cực Lạc, biểu trưng cho tăng đoàn thanh tịnh – tức là cộng
đồng tu hành lý tưởng mà ta mong được gia hộ, nâng đỡ.
5.
Nguyện tiêu chướng, tăng trưởng đạo tâm
“...khiến cho chúng con thân tâm an lạc, tội chướng, báo
chướng, oán chướng thảy dứt trừ, lòng tin càng bền vững, sức hành trì càng
tăng, ý nguyện càng thiết tha, ngõ hầu mai sau được sanh về cõi An Dưỡng.”
· Ý nghĩa hiển: Nguyện cho thân tâm
an lạc, các chướng ngại tan biến, lòng tin – nguyện – hạnh ngày càng vững chắc
để khi mãn duyên được vãng sanh.
·
Giải thích các chướng:
o Tội chướng: nghiệp ác do thân –
khẩu – ý tạo ra.
o Báo chướng: quả báo từ nghiệp
quá khứ, như bệnh tật, nghèo khổ.
o Oán chướng: sự oán hận, oan gia
trái chủ làm chướng ngại.
· Ý sâu: Câu này là hồi hướng công
đức để làm tư lương vãng sanh. Nhấn mạnh rằng muốn về Cực Lạc thì phải
chuyển nghiệp – tăng tín tâm – tăng hành trì – thiết tha nguyện lực.
6.
Kết thúc
“Nam-mô Chứng Minh Sư Bồ-tát (3 lần) Ma-ha-tát”
· Ý nghĩa hiển: Xưng danh Bồ-tát
chứng minh cho lời nguyện.
· Ý sâu: “Chứng Minh Sư Bồ-tát” tức là biểu
trưng cho tất cả chư Bồ-tát làm chứng. Lặp lại 3 lần để biểu thị cho thân
– khẩu – ý thanh tịnh, kiên định trong lời nguyện.
Tóm lại: Bài Kỳ Nguyện giúp hành giả:
1.
Khởi tâm chí thành
dâng hương và phát nguyện.
2.
Nhớ lại khổ luân hồi,
quý trọng nhân duyên gặp Phật pháp.
3.
Xác lập Tín – Nguyện
– Hạnh trong pháp môn Tịnh độ.
4.
Cầu chư Phật, Bồ-tát
gia hộ, tiêu chướng, tăng trưởng công đức.
5.
Hồi hướng nguyện vãng
sanh Cực Lạc.
III. TÁN THÁN CHƯ PHẬT
1.
“Sắc thân Như Lai đẹp – Trong đời không ai bằng – Không sánh, chẳng nghĩ
bàn – Nên nay con đảnh lễ”
· Sắc thân Như Lai: đây là thân tướng
của Phật, biểu hiện đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Nhưng không chỉ là tướng
mạo bên ngoài, mà là sự toàn hảo từ bi – trí tuệ – công đức
hiển lộ ra ngoài.
· Không ai bằng, chẳng nghĩ bàn: nghĩa là không một
phàm phu, không một bậc thánh nào trong tam giới có thể so sánh với công đức
Phật. “Chẳng nghĩ bàn” tức là vượt ngoài sự so lường bằng ý nghĩ và lời nói của
chúng sinh.
· Ý nghĩa tu tập: khi đảnh lễ tướng
hảo Như Lai, hành giả quán tưởng sắc thân Phật là do vô lượng công hạnh tu tập
tích lũy, từ đó phát tâm tinh tấn, noi theo.
2. “Sắc thân Phật vô tận – Trí tuệ Ngài cũng
thế – Tất cả pháp thường trú – Cho nên con về nương”
· Sắc thân Phật vô tận: sắc thân Phật không
phải chỉ giới hạn ở một thân hình, mà là vô tận, vì chư Phật tùy duyên hóa hiện
khắp mười phương, tùy căn cơ mà hiện tướng.
· Trí tuệ cũng vô tận: trí tuệ Phật soi
suốt pháp giới, thấy rõ chân tướng của mọi sự vật: vô thường, vô ngã, duyên khởi.
· Tất cả pháp thường trú: ám chỉ Chân
như – Pháp tánh vốn không sinh không diệt, vượt ngoài biến đổi. Trí
tuệ Phật thấy rõ điều này, nên chúng ta quy y nương tựa.
· Ý nghĩa tu tập: nhắc nhở hành giả
thấy Phật không chỉ có “thân” mà còn có “trí” – và cái chúng ta học theo là trí
tuệ, là pháp thân vô tận.
3. “Sức đại trí, đại nguyện – Độ tất cả quần
sanh – Khiến bỏ thân nóng khổ – Sanh cõi Tịnh mát vui”
· Đại trí, đại nguyện: Phật không chỉ có
trí tuệ sáng suốt, mà còn có lòng nguyện rộng lớn cứu độ tất cả. Đặc biệt Đức
A-di-đà có 48 đại nguyện làm nhân đưa chúng sinh về Tịnh độ.
· Bỏ thân nóng khổ: chỉ sự giải thoát
khỏi sinh tử luân hồi, khỏi ba đường ác, khỏi phiền não thiêu đốt.
· Sanh cõi Tịnh mát vui: là Cực Lạc quốc độ,
nơi an ổn thanh tịnh, không còn các khổ, chỉ có pháp lạc.
· Ý nghĩa tu tập: nương nơi nguyện
lực Phật, phát nguyện vãng sanh, để thoát cảnh khổ mà an trú nơi tịnh mát của
pháp lạc.
4. “Con nay sạch ba nghiệp – Quay về và đảnh
lễ”
· Ba nghiệp: thân – khẩu – ý.
Đây là ba cửa tạo tác nghiệp nhân trong luân hồi.
· Sạch ba nghiệp: là mục tiêu, nhờ
tụng kinh, niệm Phật, phát nguyện mà tạm thời thanh tịnh ba nghiệp để hướng về
Tam bảo.
· Đảnh lễ: biểu hiện tâm cung
kính tột bậc, đồng thời cũng là sự “hạ ngã mạn”, buông cái tôi chấp ngã để hòa
mình trong Pháp.
· Ý nghĩa tu tập: mỗi lần xướng “con
nay sạch ba nghiệp” là một lần tự nhắc: phải giữ thân – khẩu – ý thanh tịnh,
đây chính là gốc của Tịnh nghiệp.
Tóm ý
Đoạn tán thán này
nhấn mạnh:
1.
Phật có sắc – trí –
đức toàn hảo, vượt ngoài nghĩ bàn.
2.
Phật hiện thân vô
tận, trí tuệ vô biên, pháp tánh thường trú.
3.
Phật có đại nguyện
cứu độ, đưa chúng sinh từ khổ đến an vui.
4. Hành giả muốn được độ
phải tự giữ ba nghiệp thanh tịnh, chí tâm quy y và đảnh lễ.
IV. ĐẢNH LỄ
1.
“Nhất
tâm đảnh lễ: Chư Phật, Tôn pháp, Hiền thánh Tăng thường trụ khắp cõi hư
không trong mười phương ba đời.”
·
“Nhất tâm đảnh lễ”
o Nghĩa là đem trọn tâm chí thành,
không tán loạn, nhất mực cung kính mà đảnh lễ.
o Đây là tâm căn bản trong mọi hành
trì: thân lạy xuống, miệng xưng danh, nhưng tâm phải hợp nhất thì mới
gọi là “nhất tâm”.
·
“Chư Phật”
o
Là tất cả các Đức Phật trong mười
phương ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
o
Đảnh lễ chư Phật tức là nương tựa
nơi giác ngộ viên mãn, nguồn gốc của trí tuệ, từ bi và giải thoát.
·
“Tôn pháp”
o
Chỉ Phật pháp – con đường đưa chúng
sanh thoát khỏi sinh tử, chứng nhập Niết-bàn.
o
Gọi là “tôn” vì pháp cao quý, là
thầy của trời người, là ngọn đèn chỉ lối trong đêm tối vô minh.
·
“Hiền thánh
Tăng”
o
Tăng đoàn thanh tịnh, hòa hợp, sống
đúng Chánh pháp.
o
“Hiền” chỉ các bậc tu hành có đạo hạnh,
“Thánh” chỉ các bậc đã chứng quả.
o
Tăng bảo là ruộng phước của thế
gian, nhờ Tăng mà Pháp được duy trì và truyền bá.
·
“Thường trụ
khắp cõi hư không trong mười phương ba đời”
o Ý nghĩa: Tam bảo không hề mất đi,
luôn hiện hữu khắp cùng pháp giới, dù ở bất kỳ thời gian (ba đời: quá khứ, hiện
tại, vị lai) hay không gian (mười phương).
o Đảnh lễ câu này chính là quy y
tổng quát nơi Tam bảo thường trụ, trước khi đi vào đảnh lễ riêng từng hội
Phật và Bồ-tát.
· Ý sâu xa: Mở đầu nghi thức, hành giả dâng tâm chí thành quy
kính Tam bảo thường trụ khắp pháp giới. Điều này nhắc nhở rằng dù chúng
ta đang hướng tâm về Tây phương Cực Lạc, nhưng căn bản vẫn nương Tam bảo
– vì Tam bảo là nền tảng bất biến của mọi pháp môn. Đảnh lễ câu này tức là đặt
tâm trên nền tảng vĩnh hằng, để từ đó bước vào con đường Tịnh độ.
2. “Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Bổn sư
Thích-ca Mâu-ni - giáo chủ cõi Ta-bà, Đức Phật Di-lặc - giáo chủ hội Long Hoa,
bồ-tát Đại trí Văn-thù-sư-lợi, bồ-tát Đại hạnh Phổ Hiền, bồ-tát Đại nguyện Địa
Tạng Vương, các vị Bồ-tát hộ pháp, và tất cả các Đức Phật, Bồ-tát trong hội
Linh Sơn.”
· Đức Phật Thích-ca Mâu-ni: vị giáo chủ cõi
Ta-bà, người đã khai thị pháp môn Tịnh độ cho chúng ta. Đảnh lễ Ngài là nhắc
nhớ đến gốc ơn giáo dưỡng.
· Phật Di-lặc: vị Phật tương lai,
giáo chủ hội Long Hoa, tượng trưng cho lòng từ và niềm hy vọng vào tương lai
giác ngộ.
· Văn-thù, Phổ Hiền, Địa Tạng: ba đại Bồ-tát tiêu
biểu cho Trí – Hạnh – Nguyện.
· Các vị Hộ pháp: như Vi-đà Hộ pháp,
Tứ Thiên vương… bảo vệ chánh pháp.
· Ý nghĩa: đoạn đảnh lễ này mở
rộng ra ngoài pháp môn Tịnh độ, nhắc rằng hành giả Tịnh độ cũng nằm trong mạch
nguồn chung của toàn thể Phật giáo Đại thừa. Đây là sự gắn kết với hội
Linh Sơn bất tán – biểu tượng cho sự truyền thừa không gián đoạn.
3. “Nhất tâm đảnh lễ: Đức Phật Dược Sư Lưu Li
Quang Vương - giáo chủ cõi Tịnh Lưu Li ở phương đông, bồ-tát Nhật Quang Biến
Chiếu, bồ-tát Nguyệt Quang Biến Chiếu, bồ-tát Dược Vương, bồ-tát Dược Thượng,
cùng chư Phật, Bồ-tát trong hội Dược Sư.”
· Phật Dược Sư: vị Phật của phương
Đông, nguyện lực cứu khổ bệnh tật, đem lại an lành thân tâm.
· Bồ-tát Nhật Quang – Nguyệt Quang: biểu trưng cho trí
tuệ và từ bi, soi chiếu ban ngày và ban đêm, không gián đoạn.
· Bồ-tát Dược Vương – Dược Thượng: biểu hiện cho khả
năng dùng pháp dược cứu chữa thân tâm chúng sanh.
· Ý nghĩa: Tịnh độ và Dược Sư
là hai pháp môn thường song hành trong truyền thống tu học: Tịnh độ để cầu vãng
sanh, Dược Sư để cầu an lạc, trị bệnh. Đảnh lễ ở đây là để đầy đủ cả hướng
vãng sanh và hướng hiện đời.
4. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Thường Tịch Quang,
A-di-đà Như Lai Pháp thân diệu thanh tịnh cùng tất cả các Đức Phật.”
· Cõi Thường Tịch Quang: chỉ cảnh giới Pháp
thân, bản thể thanh tịnh tuyệt đối, không sinh không diệt, như hư không bao
trùm.
· Pháp thân diệu thanh tịnh: Pháp thân của Như
Lai không hình sắc, không giới hạn, chính là Chân như – Thật tướng.
· Ý nghĩa: khi đảnh lễ, hành
giả nhắc tâm mình quay về cội nguồn thanh tịnh, không chấp tướng. Đây là nương
tựa nơi Pháp thân Phật.
5. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Thật Báo Trang
Nghiêm, A-di-đà Như Lai Báo thân vô lượng tướng cùng tất cả các Đức Phật.”
· Cõi Thật Báo Trang Nghiêm: cảnh giới dành cho
Bồ-tát từ Thập địa trở lên, nơi chỉ có bậc thánh mới chứng nhập.
· Báo thân vô lượng tướng: Báo thân là thân
công đức do tu tập vô lượng kiếp mà thành, có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp,
thân đó chỉ Bồ-tát Đại thừa mới thấy được.
· Ý nghĩa: nhắc ta rằng công
đức tu hành không mất, đều trở thành “Báo” hiển hiện nơi Phật thân.
6. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi Phương Tiện Đồng
Cư, A-di-đà Như Lai Ứng thân chân giải thoát cùng tất cả các Đức Phật.”
· Cõi Phương Tiện Đồng Cư: chỗ thánh – phàm
đồng cư, tức là cảnh giới của người mới vãng sanh.
· Ứng thân chân giải thoát: Ứng thân Phật thị
hiện vào cõi người để hóa độ, tùy cơ cảm ứng.
· Ý nghĩa: ta đảnh lễ để nhắc
rằng chính chúng ta đang ở trong cõi Đồng Cư, và cũng được Phật dùng ứng thân
mà tiếp dẫn.
7. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
A-di-đà Như Lai thân giới căn Đại thừa cùng tất cả các Đức Phật.”
· Thân giới căn Đại thừa: nghĩa là thân,
giới, căn (các căn tu tập) của Phật A-di-đà đều viên mãn, là gương mẫu của hành
giả Đại thừa.
· Ý nghĩa: nêu rõ khi vãng
sanh, hành giả được thân thanh tịnh, giới đầy đủ, căn không thiếu khuyết. Đây
là phước báo đặc biệt của Cực Lạc.
8. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
A-di-đà Như Lai thân hóa khắp mười phương cùng tất cả các Đức Phật.”
· Thân hóa khắp mười phương: thân Phật không bị
giới hạn, có thể hóa thân vô số, đi khắp pháp giới để độ sinh.
· Ý nghĩa: dù Phật A-di-đà ở
Tây phương, nhưng nguyện lực khiến Ngài có mặt khắp mười phương, không rời xa
chúng ta.
9. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
Giáo hạnh lí ba kinh tuyên dương môn Tịnh Độ, cùng tất cả các Tôn pháp.”
· Giáo hạnh lí ba kinh: ba bộ kinh Tịnh độ
(Vô Lượng Thọ, A-di-đà, Quán Vô Lượng Thọ), là pháp môn do chính Phật tuyên
dương.
· Ý nghĩa: ngoài việc đảnh lễ
Phật, ta còn đảnh lễ Pháp – tức là toàn bộ giáo pháp Tịnh độ, được xem là pháp
môn thù thắng, phù hợp thời mạt pháp.
10. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
Quán Thế Âm Bồ-tát thân vạn ức tử kim cùng tất cả các Bồ-tát.”
· Quán Thế Âm: hiện thân từ bi,
lắng nghe tiếng khổ của chúng sinh.
· Thân vạn ức tử kim: hình dung thân Ngài
vàng ròng sáng chói, vô số ứng hóa thân.
· Ý nghĩa: đảnh lễ để nương
theo tâm từ bi, nguyện cứu khổ ban vui như Quán Âm.
11. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
Đại Thế Chí Bồ-tát thân trí sáng vô biên cùng tất cả các Bồ-tát.”
· Đại Thế Chí: biểu trưng cho Đại
lực và Đại trí, lấy niệm Phật tam-muội
làm pháp môn.
· Ý nghĩa: nương trí tuệ Đại
Thế Chí, hành giả thấy rõ cội nguồn giải thoát là niệm Phật nhất tâm.
12. “Nhất tâm đảnh lễ: Cõi An Lạc phương Tây,
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát thân trọn phần phước trí cùng tất cả Thánh
chúng.”
· Thanh Tịnh Đại Hải Chúng: chỉ toàn thể Bồ-tát
và Thánh chúng ở Cực Lạc, đông nhiều như biển cả.
· Thân trọn phần phước trí: tức là mỗi vị đều
đầy đủ phước đức và trí tuệ.
· Ý nghĩa: hành giả khi vãng
sanh sẽ được hòa nhập vào “hải hội Liên Trì”, đồng học đồng tu với Thánh chúng,
một sự thù thắng bậc nhất.
Tóm lại
Nghi thức đảnh lễ
được triển khai thành 4 tầng ý nghĩa:
1. Đảnh lễ Tam bảo thường trụ khắp mười phương ba đời –
đặt nền tảng quy y căn bản.
2.
Đảnh lễ Phật A-di-đà
và cảnh giới Tịnh độ (từ Pháp thân – Báo
thân – Ứng thân, cho đến Tam Thánh và Đại hải chúng).
3.
Đảnh lễ các Đức Phật
– Bồ-tát trọng yếu khác: Thích-ca, Di-lặc,
Văn-thù, Phổ Hiền, Địa Tạng, Hộ pháp… để biểu thị ơn đức giáo hóa và
truyền thừa.
4.
Đảnh lễ Phật Dược Sư
và hội Dược Sư: để cầu an
lạc, tiêu bệnh khổ trong hiện đời, bổ sung cho nguyện lực vãng sanh.
Như vậy, toàn bộ nghi
thức này vừa làm tròn Tam quy (Phật – Pháp – Tăng), vừa bao
quát bốn nguyện lớn (trí – hạnh – nguyện – từ bi), khiến cho
hành giả khi tụng niệm cảm thấy tâm được mở rộng, không rơi vào thiên lệch, mà
vẫn trọn đủ căn bản và đặc thù của pháp môn Tịnh độ.
V. TÁN LƯ HƯƠNG
1. “Hương
trầm quyện tỏa lư vàng / Xông cùng pháp giới đạo tràng gần xa”
- Hương trầm: hương được đốt bằng trầm hương, tượng trưng cho giới
– định – huệ, ba môn học vô lậu, thơm ngát lan tỏa khắp mười phương.
- Lư vàng: cái lư bằng vàng tượng trưng cho tâm thành thanh
tịnh, vì vàng ròng không hoen ố, ví như tâm chí thành của hành giả.
- Xông cùng pháp giới đạo tràng: mùi hương không chỉ lan trong đạo tràng nhỏ bé hiện
tại, mà lan khắp pháp giới, nghĩa là tất cả các cõi Phật đều cùng
cảm ứng. Đây cũng là biểu hiện cho tâm nguyện của hành giả: không chỉ
tu cho mình, mà hồi hướng khắp tất cả chúng sanh.
2. “Kết
thành mây báu sáng lòa / Kính dâng hương nguyện thiết tha chí thành”
- Khi hương bay lên, được ví như mây
báu – mây quý báu che khắp trời, biểu thị cho công đức tụng niệm –
cúng dường rộng lớn, bao trùm.
- Hương nguyện: tức là mùi hương của nguyện lực, tâm thành,
không phải chỉ hương vật chất.
- Thiết tha chí thành: yếu tố quan trọng của Tịnh độ là chân thành – khẩn
thiết – chuyên nhất (tín, nguyện, hạnh). Câu này nhấn mạnh rằng hương
vật chất chỉ là phương tiện, hương của tâm thành mới thật sự dâng
đến chư Phật.
3. “Chư
Phật thấu biết lòng lành / Pháp thân ứng hiện rõ rành chứng minh”
- Chư Phật thấu biết: tâm thành của chúng sanh không thể che giấu, chư Phật
dùng trí tuệ “nhất thiết trí” đều thấy rõ.
- Pháp thân ứng hiện: khi tâm người tụng kinh hòa hợp với công đức Phật,
thì Pháp thân (tánh giác thanh tịnh vốn có) liền hiển lộ.
- Ý nghĩa sâu xa: cúng dường
hương không phải để Phật nhận, mà để tự tâm hiển lộ Pháp thân thanh
tịnh – đó mới là sự chứng minh chân thật.
4. “Nam-mô
Hương Vân Cái Bồ-tát Ma-ha-tát”
- Hương Vân Cái Bồ-tát: nghĩa là Bồ-tát dùng hương công đức làm thành tràng
phan, lọng báu (cái) che khắp, như mây hương lan tỏa khắp mười phương.
- Danh hiệu này cũng ám chỉ rằng:
khi hành giả tụng niệm với tâm thành, thì tự tâm trở thành một đám mây
hương công đức dâng cúng mười phương chư Phật.
- Ma-ha-tát: Bồ-tát lớn, nhấn mạnh tầm vóc công đức này không nhỏ
hẹp, mà bao la rộng lớn.
Tóm
lại
Bài Tán Lư Hương là mở
đầu nghi thức tụng niệm, có ba tầng ý nghĩa:
1. Hiển bày hình thức cúng
dường: hương trầm, lư vàng, mây
báu.
2. Chỉ ra bản chất chân thật: hương giới, hương định, hương huệ; hương công đức và
tâm thành.
3. Khẳng định sự cảm ứng: Pháp thân Phật chứng minh, hương nguyện lan tỏa khắp
pháp giới.
Do đó, khi tụng đoạn này,
hành giả không chỉ thắp hương ngoài thân, mà còn tự nhắc mình phải thắp
hương trong tâm – tức là hương giới – định – huệ, tín – nguyện – hạnh
để chính mình và tất cả chúng sanh đều được lợi lạc.
Năm loại hương công đức (theo Kinh Pháp Cú và các kinh Tịnh độ)
1)
Giới hương (hương trì giới)
o Người giữ gìn giới
luật thanh tịnh (không sát sanh, trộm cắp, tà hạnh, nói dối, uống rượu...) thì
đức hạnh tỏa ngát như hương.
o Đây là nền tảng căn
bản. Hương trầm ngoài thân có thể bay ngược chiều gió, còn giới hương
trong tâm thì lan tỏa khắp mười phương.
2)
Định hương (hương thiền định)
o Khi tâm không tán
loạn, an trụ trong chánh niệm – đó chính là “định hương”.
o Khói hương vật chất tan
rồi mất, còn hương định giúp tâm hành giả lắng trong, vượt
khỏi nhiễu loạn thế gian.
3)
Huệ hương (hương trí tuệ)
o Khi tu học và quán
chiếu, hành giả phát sinh trí tuệ (Bát nhã).
o Trí tuệ như hương
thơm phá tan vô minh, soi sáng chính mình và người khác.
4)
Giải thoát hương
o Người tu hành không
bị ràng buộc bởi tham – sân – si, thoát khỏi khổ đau, đó là giải thoát
hương.
o Đây là mùi hương của
sự tự do chân thật.
5)
Giải thoát tri kiến hương
o Không chỉ giải thoát,
mà còn thấy rõ thật tướng các pháp: không – vô tướng – vô nguyện.
o Đây là bậc cao nhất
trong năm thứ hương, là “mùi hương giác ngộ viên mãn”.
VI. CHÍ TÂM SÁM HỐI
1. Khởi
đầu: Xưng tội và nhận thức vô minh
“Đệ
tử chúng con và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ cho đến ngày nay bị
vô minh che đậy, nên điên đảo mê lầm...”
· Vô minh: là gốc rễ của mọi
tội lỗi. Vì không thấy rõ thật tướng vô thường, khổ, vô ngã nên con người điên
đảo, chạy theo vọng tưởng.
·
Sáu căn – ba nghiệp:
o Sáu căn: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý → tiếp xúc với sáu trần mà sinh tham sân si.
o Ba nghiệp: thân, khẩu, ý → tạo
ra mười ác nghiệp.
· Mười điều dữ, năm tội Vô gián: nhắc đến nghiệp cực
trọng (như giết cha mẹ, phá hòa hợp tăng, làm Phật chảy máu), cho thấy sự thành
thật tận cùng trong sám hối – không giấu giếm, không chối bỏ.
👉 Ý chính: Tội lỗi
không phải từ ai ban cho, mà do chính vô minh và ba nghiệp của mình chiêu cảm.
Sám hối là nhìn thẳng vào sự thật.
2. Thế
giới Phật – ánh sáng và pháp âm không dứt
“Mười
phương các Đức Phật thường trụ nơi đời, pháp âm không dứt... phóng ánh sáng sạch
trong chiếu soi tất cả...”
· Pháp âm không dứt: pháp của Phật vốn
thường trụ, luôn có mặt, nhưng chúng sanh vì vô minh che lấp mà không thấy
nghe.
· Ánh sáng sạch trong: tượng trưng cho trí
tuệ Bát nhã, phá tan bóng tối vô minh.
👉 Mật nghĩa: Chư Phật
chưa từng rời bỏ chúng sanh, chỉ do chúng sanh tự khép cửa tâm.
3. Nguyên
nhân đọa lạc
“Chúng
con... sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy chẳng nghe... vì nhân
duyên đó, trôi mãi trong dòng sanh tử...”
· Chính sự không biết – không thấy – không nghe
pháp mà rơi vào luân hồi.
·
Đây là nhân quả tự nhiên, không phải
trừng phạt.
4. Chứng
minh từ kinh điển
“Kinh
ghi rằng: ‘Phật Tì-lô-giá-na Biến Nhất Thiết Xứ...’”
· Tì-lô-giá-na (Vairocana): biểu trưng cho Pháp
thân thường trụ – ánh sáng Phật pháp bao trùm hư không.
·
Ý nghĩa: pháp vốn đầy khắp, chỉ vì vô minh nên không
thấy.
👉 Đây là quán
chiếu sâu: tất cả pháp đều là Phật pháp, nhưng mê thì thấy thành phiền
não, ngộ thì thấy thành giải thoát.
5. Tỏ
ngộ và phát tâm sám hối
“Nay
mới tỏ ngộ, nay mới sửa đổi ăn năn...”
·
Đây là chuyển điểm: từ nhận ra lỗi →
phát tâm hối cải.
· Sám hối không chỉ là xin tha tội, mà là chuyển
hóa tâm thức, từ vọng về chân.
6. Bao
gồm tất cả tội lỗi để sám hối
“...hoặc
do chính mình gây tạo, hoặc bảo người gây tạo, hay là thấy nghe người gây tạo
mà vui theo...”
· Đây là lời sám hối toàn diện, không bỏ
sót:
o Tự làm.
o Sai người làm.
o Thấy người làm mà vui
theo.
· Cũng bao gồm: nhớ/không nhớ, biết/không biết, nghi/không
nghi → để dứt sạch tận gốc.
👉 Đây chính là “tội
tùng tâm khởi, tùng tâm sám” – tội do tâm khởi, thì sám hối cũng từ
tâm mà trừ.
7. Kết
quả của sám hối
“Sáu
căn ba nghiệp hoàn toàn trong sạch, không mảy may lỗi lầm...”
· Đây là niềm tin vững chắc: sám hối chí
thành thì nghiệp chướng liền tiêu.
· Phát tâm hồi hướng công đức về trang nghiêm Tịnh
độ – không giữ riêng cho mình mà nguyện chung với tất cả chúng sanh.
8. Nguyện
lực Tịnh độ
“Nguyện
Đức A-di-đà Phật thường đến hộ trì... Đến giờ lâm chung... thấy Phật và Thánh
chúng tay cầm đài sen tiếp dẫn...”
· Đây là chỗ quy hướng cuối cùng: nhờ bản
nguyện A-di-đà mà được tiếp dẫn.
· Hình ảnh tay cầm đài sen là biểu tượng
cho sự nâng đỡ, đưa về Cực Lạc.
9. Kết
thúc bằng lễ bái
“Chúng
đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin chí thành đảnh lễ...”
· Sau sám hối – phát nguyện – hồi hướng, cuối cùng là hành
động lễ lạy, biểu hiện thân tâm khiêm hạ.
·
Đây là sự viên mãn của một pháp sám.
Tóm lại:
· Bài Chí tâm sám hối là sự kết hợp giữa tự
giác (tự thấy lỗi), quán chiếu (biết pháp vốn thanh tịnh), phát nguyện (hồi
hướng Tịnh độ).
· Nó nhắc hành giả
rằng: không phải chỉ niệm Phật mà được vãng sanh, mà còn cần sám hối
chân thành, để tâm thanh tịnh tương ứng với Cực Lạc.
1. “Pháp Phật cao vời, lại thẳm sâu”
· “Cao vời”: pháp Phật vượt lên
trên mọi pháp thế gian, siêu xuất mọi học thuyết, không gì sánh bằng.
· “Thẳm sâu”: nghĩa lý thâm diệu,
không thể chỉ dùng trí phân biệt mà hiểu hết. Pháp Phật vừa cao (khó với tới),
vừa sâu (khó dò tận).
· 👉 Đây là lời nhắc:
bước vào tụng kinh thì phải có tâm khiêm hạ, kính cẩn, không xem nhẹ.
2.
“Trăm ngàn vạn kiếp khó tìm cầu”
·
Đây là câu tán thán hiếm có:
o Trong kinh Pháp Hoa,
đức Phật từng dạy: “Chư
Phật ra đời rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm ba ngàn năm mới nở một lần.”
o Có được thân người đã
khó, gặp Phật pháp lại càng khó.
o 👉 Bài kệ nhắc nhở hành
giả: hôm nay được tụng kinh là phước báu lớn từ nhiều đời nhiều kiếp,
không thể lơ là.
3. “Nay
con nghe thấy xin trì tụng”
· “Nghe thấy”: không chỉ là nghe
bằng tai, thấy bằng mắt, mà là tâm tiếp nhận.
·
“Trì tụng”: không dừng ở đọc
qua, mà còn là ghi nhớ, hành trì, để pháp nhập vào tâm và chuyển hóa đời sống.
· 👉 Mật nghĩa: tụng kinh
không phải để Phật nghe, mà để tâm mình được nghe chính mình đọc
và dần tương ưng với pháp.
4.
“Nguyện thấu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
· Đây là điểm rốt ráo: không chỉ tụng
xuông, mà còn cầu cho tâm mình thấu suốt được nghĩa lý sâu xa của Như Lai.
· “Nhiệm mầu” nghĩa là vượt ngoài ngôn ngữ, chỉ khi tâm
trong sáng thì mới cảm nhận được.
· 👉 Lời nguyện này đưa
người tụng kinh từ hình thức (tụng) đến thực chất (ngộ
nghĩa).
5.
“Nam-mô Liên Trì Hải hội Phật Bồ-tát”
· Đây là câu hướng về đại hội Liên Trì ở
cõi Cực Lạc, nơi Phật A-di-đà và vô số Bồ-tát, Thánh chúng đang tuyên thuyết
pháp mầu.
· Ý nghĩa: khi chúng ta tụng
kinh tại nhân gian, cũng chính là đồng dự vào pháp hội Liên Trì – thân tuy ở
Ta-bà, tâm đã kết nối với Cực Lạc.
Tóm lại: Bài Kệ khai kinh nhắc
người tụng:
·
Hãy khởi tâm khiêm
cung trước pháp mầu khó gặp.
·
Hãy tụng với chánh
niệm và tín tâm, không phải chỉ đọc chữ.
·
Hãy nguyện
hiểu, nguyện hành, nguyện chứng, để tụng kinh trở thành hạt giống đưa
đến giải thoát.
VIII. CHÁNH KINH
KINH
PHẬT NÓI VỀ ĐỨC A-DI-ĐÀ
Đúng thật như thế, chính tôi được
nghe. Có một thời Đức Phật và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tì-kheo đồng cư trú
ở tinh xá Kì-hoàn. Trong đó có những vị đệ tử ưu tú, là các bậc A-la-hán mà mọi
người đều quen biết, như ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Ca-diếp,
Ca-chiên-diên, Câu-hy-la, Ly-bà-đà, Châu-lợi Bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan-đà,
La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Kiếp-tân-na,
Bạt-câu-la và A-nậu-lâu-đà. Lại cũng có các vị Đại Bồ-tát như Pháp vương tử
Văn-thù-sư-lợi, A-dật-đa, Càn-đà-ha-đề, Thường Tinh Tấn, cùng vô số chư thiên
như Thích-đề-hoàn-nhân v.v… đều nhóm họp.
A. MỞ KINH, BỐI
CẢNH THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ
1.
“Đúng thật như thế, chính tôi được
nghe.”
· Nghĩa hiển bày: Đây là công thức mở đầu hầu
hết các kinh điển: Như thị ngã văn. Nghĩa là “Tôi (ngài A-nan) nghe
như thế này, đúng sự thật”.
·
Thuật ngữ: Như thị ngã văn (如是我聞) – được ngài A-nan kết tập
để chứng minh kinh này do chính Đức Phật thuyết, không phải do người sau thêm
vào.
· Ẩn ý/mật ý: “Như thị” nghĩa là “đúng như thật, không sai
khác”. Đức Phật dạy chân lý vốn như thế, không thêm bớt. Hành giả tu Tịnh độ
cũng phải lấy tâm “như thật” để nghe, tin và hành – không nghi
ngờ, không suy diễn sai lệch.
·
Ứng dụng: Khi tụng câu mở đầu này, hãy khởi tâm xác
tín rằng kinh này là lời chân thật của Phật, để gieo chắc “tín căn”.
· Lỗi hiểu lầm: Có người nghĩ đây chỉ là câu mở đầu “lễ
nghĩa”, nhưng thực chất là phần cực kỳ quan trọng để khởi niềm tin vững chắc.
2. “Có một thời Đức Phật và một ngàn
hai trăm năm mươi vị Tì-kheo đồng cư trú ở tinh xá Kì-hoàn.”
· Nghĩa hiển bày: Xác định thời gian, địa
điểm và hội chúng thính pháp.
·
Thuật ngữ:
o
Tinh xá
Kì-hoàn (Jetavana
Anāthapiṇḍika-ārāma): ngôi tịnh xá do trưởng giả Cấp Cô Độc (Anāthapiṇḍika) mua
đất của Thái tử Kì-đà (Kì-hoàn) để cúng dường Phật và Tăng. Đây là nơi Đức Phật
thuyết nhiều bộ kinh quan trọng.
o
Một ngàn hai trăm năm mươi vị Tì-kheo: Đây là số lượng thường trực
của các vị đại đệ tử theo Phật, biểu trưng cho hội chúng thanh tịnh.
· Ẩn ý/mật ý: Con số đông đảo này tượng trưng cho sự đầy
đủ “tăng thượng duyên”. Giáo pháp Phật sắp tuyên nói không chỉ dành cho một ít
người, mà là pháp môn phổ quát, có thể làm lợi ích cho vô số chúng sinh.
· Ứng dụng: Khi học pháp, cần có “tăng đoàn” hộ trì, bạn
đồng tu nâng đỡ – không thể tu đơn độc.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng số lượng Tì-kheo chỉ là thông tin
lịch sử; thực ra còn biểu thị sự đồng thuận, chứng minh pháp môn này.
3. “Trong đó có những vị đệ tử ưu
tú, là các bậc A-la-hán mà mọi người đều quen biết, như ngài Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên,
Ca-diếp…”
· Nghĩa hiển bày: Liệt kê các vị đại
A-la-hán, những bậc Thánh chứng quả cao, ai cũng biết đến.
· Thuật ngữ:
o
A-la-hán (Arhat): bậc Thánh đã đoạn tận phiền não, thoát luân hồi.
o
Xá-lợi-phất: trí tuệ bậc nhất.
o
Mục-kiền-liên: thần thông bậc nhất.
o
Ca-diếp: đầu-đà (khổ hạnh) bậc nhất.
o
A-nan: đa văn bậc nhất (người kết tập kinh).
o
La-hầu-la: hạnh mật hạnh bậc nhất (con Phật).
· Ẩn ý/mật ý: Các vị đại đệ tử này đại diện cho những công
hạnh lớn: trí tuệ, thần thông, khổ hạnh, đa văn, mật hạnh… Pháp môn Tịnh độ
không trái ngược với bất kỳ hạnh nào, mà dung nhiếp tất cả.
· Ứng dụng: Hành giả sơ cơ không nên so bì mình kém cỏi,
vì chính những bậc Thánh trí tuệ siêu việt còn đến nghe pháp môn này.
· Lỗi hiểu lầm: Cho rằng Tịnh độ chỉ là pháp môn “dành cho
người ít trí”; thực ra chư đại đệ tử A-la-hán đều tham dự nghe.
4. “Lại cũng có các vị Đại Bồ-tát
như Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, A-dật-đa, Càn-đà-ha-đề, Thường Tinh Tấn…”
· Nghĩa hiển bày: Ngoài A-la-hán, còn có các
vị Bồ-tát lớn – biểu trưng cho đại nguyện cứu độ.
· Thuật ngữ:
o
Văn-thù-sư-lợi (Mañjuśrī): trí tuệ Bồ-tát.
o
A-dật-đa (Ajita, tức Di-lặc): từ bi và là Phật vị lai.
o
Thường Tinh Tấn (Nityodyukta): biểu tượng cho hạnh tinh tấn không gián đoạn.
· Ẩn ý/mật ý: Pháp môn Tịnh độ không chỉ cho bậc “tự độ”
(A-la-hán) mà còn được hàng “đại độ” (Bồ-tát) chứng minh. Đây là con đường viên
dung cả Tiểu thừa và Đại thừa.
· Ứng dụng: Tu niệm Phật phải đầy đủ cả ba: trí tuệ
(Văn-thù), từ bi (Di-lặc), tinh tấn (Thường Tinh Tấn).
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng Bồ-tát chỉ tu những hạnh cao xa,
không niệm Phật; thực ra Bồ-tát cũng đồng hội nghe pháp môn này.
5. “Cùng vô số chư thiên như Thích-đề-hoàn-nhân
v.v… đều nhóm họp.”
· Nghĩa hiển bày: Các vị trời cũng tham dự. Thích-đề-hoàn-nhân
là Đế Thích (Indra), vua cõi trời Tam thập tam.
· Ẩn ý/mật ý: Pháp môn Tịnh độ không chỉ nhân loại, mà cả
chư thiên cũng cần. Vì phước trời rồi cũng hết, chỉ có niệm Phật cầu vãng sanh
mới vượt vòng sinh tử.
· Ứng dụng: Đừng tự mãn với phước báo thế gian (giàu
sang, danh vọng); ngay cả chư thiên hưởng lạc cũng cần pháp này.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng chỉ loài người khổ mới cần tu;
thực ra chư thiên cũng không thoát sinh tử.
·
Đây là kinh điển
chân thật, được truyền tụng bởi ngài A-nan.
· Hội chúng gồm đủ ba
hạng thánh: Thanh văn (A-la-hán), Bồ-tát, và chư thiên → chứng minh
pháp môn này phổ cập và viên dung.
· Ý mật: Pháp môn Tịnh độ được
dạy giữa hội chúng “thập phương đồng chứng”, để xác lập rằng đây là pháp môn chân
thật – phổ quát – thù thắng.
Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất
rằng: “Từ đây đi về phương Tây, cách khoảng mười vạn ức cõi Phật, có một thế
giới gọi là Cực Lạc, Đức Phật A-di-đà, giáo chủ cõi ấy hiện đang thuyết pháp”.
Này Xá-lợi-phất! Vì dân chúng trong
cõi nước ấy không có các nỗi khổ, chỉ toàn là niềm vui, cho nên được gọi là Cực
Lạc.
Này nữa, Xá-lợi-phất, vây quanh cõi
nước ấy có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều
được làm bằng bốn thứ báu, vì vậy được gọi là Cực Lạc.
Này nữa, Xá-lợi-phất, ở nước Cực Lạc
có hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám đặc tính. Dưới đáy hồ toàn là cát vàng;
bốn bên hồ có những con đường được làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê; bên
các con đường ấy lại có vô số lâu đài cũng được xây dựng và trang trí bằng
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não. Sen trong các hồ lớn như
bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào quang vàng, sen đỏ
chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương sen tỏa ra thơm ngát
và tinh khiết.
Xá-lợi-phất! Nước Cực Lạc được trang
nghiêm bằng những cảnh vật tuyệt diệu như thế.
B. MÔ TẢ CÕI NƯỚC
CỰC LẠC
6.
“Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Xá-lợi-phất
rằng: ‘Từ đây đi về phương Tây, cách khoảng mười vạn ức cõi Phật, có một thế giới
gọi là Cực Lạc, Đức Phật A-di-đà, giáo chủ cõi ấy hiện đang thuyết pháp’.”
· Nghĩa hiển bày: Cõi Cực Lạc ở phương Tây,
cách vô số thế giới, do Phật A-di-đà làm giáo chủ. Ngài vẫn đang thuyết pháp.
· Thuật ngữ:
o
Cực Lạc (Sukhāvatī): cõi An vui rốt ráo, không còn khổ.
o
Mười vạn ức cõi Phật: con số lớn, biểu trưng cho khoảng cách không thể
nghĩ bàn, nhằm khuyến khích hành giả tin sâu.
· Ẩn ý/mật ý:
o
“Phương Tây” không chỉ là phương hướng vật lý, mà còn tượng trưng cho chỗ
mặt trời lặn – sự kết thúc sinh tử, cũng là nơi mở ra ánh sáng
vô lượng.
o
“Phật A-di-đà hiện đang thuyết pháp” nghĩa là pháp âm của Ngài không
gián đoạn, luôn luôn hiện hữu, chỉ cần tâm tương ưng thì sẽ nghe được.
· Ứng dụng: Mỗi lần niệm danh hiệu, hãy tưởng nhớ “Phật
đang thuyết pháp, mình đang nghe pháp”.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng đây chỉ là chuyện “ở đâu xa xôi”;
thực chất Cực Lạc cũng chính là cảnh giới tâm thanh tịnh.
7. “Này Xá-lợi-phất! Vì dân chúng trong cõi nước ấy
không có các nỗi khổ, chỉ toàn là niềm vui, cho nên được gọi là Cực Lạc.”
· Nghĩa hiển bày: Cõi đó không có khổ đau,
chỉ có an lạc, nên gọi là Cực Lạc.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Chữ khổ ở đây bao gồm khổ thân – khổ tâm – khổ sinh tử.
o
Khi nói “chỉ toàn là vui”, đó là “pháp lạc” (niềm vui do trí tuệ, từ
bi), chứ không phải lạc thú trần gian.
·
Ứng dụng: Tập quán chiếu: “Tâm mình còn khổ não, là vì
chưa tương ưng với Cực Lạc”. Niệm Phật là để chuyển khổ thành an.
·
Lỗi hiểu lầm: Nghĩ Cực Lạc là một nơi “ăn chơi sung
sướng”; thật ra là cõi pháp lạc thanh tịnh.
8. “Này nữa, Xá-lợi-phất, vây quanh
cõi nước ấy có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, tất cả đều
được làm bằng bốn thứ báu, vì vậy được gọi là Cực Lạc.”
· Nghĩa hiển bày: Cảnh giới Cực Lạc có sự
trang nghiêm bằng bảy lớp lan can, lưới, cây báu.
·
Thuật ngữ:
o
Tứ bảo: vàng, bạc, lưu ly, pha lê.
o
Bảy lớp: tượng trưng cho sự kiên cố, phòng hộ nhiều tầng.
· Ẩn ý/mật ý: Đây là hình ảnh của giới – định –
tuệ nhiều lớp che chở. Người ở Cực Lạc luôn được bảo hộ, không bị vọng
tưởng xâm nhập.
· Ứng dụng: Người tu nên xây cho mình “lan can – lưới
báu” bằng giới luật – chánh niệm – trí tuệ để giữ tâm khỏi tán
loạn.
· Lỗi hiểu lầm: Chấp tướng vật chất, cho rằng Phật mô tả
“cảnh giàu sang”; thật ý là nói đức hạnh hiện thành cảnh.
9. “Này nữa, Xá-lợi-phất, ở nước Cực
Lạc có hồ thất bảo chứa đầy thứ nước có tám đặc tính. Dưới đáy hồ toàn là cát
vàng; bốn bên hồ có những con đường được làm bằng vàng, bạc, lưu ly và pha lê;
bên các con đường ấy lại có vô số lâu đài cũng được xây dựng và trang trí bằng
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não.”
· Nghĩa hiển bày: Hồ báu với nước tám công
đức, đáy bằng cát vàng, xung quanh lâu đài báu trang nghiêm.
·
Thuật ngữ:
o
Thất bảo: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não.
o
Nước tám công đức: trong, mát, ngọt, mềm, nhẹ, sạch, an, nuôi thân tâm.
·
Ẩn ý/mật ý:
o Hồ báu tượng trưng cho tâm thanh tịnh; nước tám công
đức tượng trưng cho Bát chánh đạo nuôi dưỡng hành giả.
o
Lâu đài bảy báu biểu thị cho phước trí đầy đủ.
· Ứng dụng: Trước khi niệm Phật, uống một ngụm nước
trong, quán tưởng như nước tám công đức rửa sạch tâm mình.
· Lỗi hiểu lầm: Hiểu theo nghĩa “cõi đó giàu vàng bạc”; thật
ra biểu trưng cho pháp – đức – phước.
10. “Sen
trong các hồ lớn như bánh xe, sen xanh chiếu hào quang xanh, sen vàng chiếu hào
quang vàng, sen đỏ chiếu hào quang đỏ, sen trắng chiếu hào quang trắng, hương
sen tỏa ra thơm ngát và tinh khiết.”
· Nghĩa hiển bày: Sen to lớn, sắc màu rực rỡ,
hương thơm thanh khiết.
· Thuật ngữ: Hoa sen: biểu trưng nhân quả đồng
thời (mọc trong bùn mà không nhiễm bùn).
· Ẩn ý/mật ý:
o Sen xanh – tín; sen vàng – giới/định; sen đỏ – từ bi; sen trắng – trí
tuệ.
o
Hào quang: ánh sáng công đức.
· Ứng dụng: Mỗi khi niệm Phật, quán tưởng mình như hoa
sen trong hồ báu: tâm dần sáng, hương đức lan tỏa.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ “sen to kỳ lạ” là điều kỳ quái; thực ra
Phật muốn chỉ tâm thanh tịnh nở rộ.
11. “Xá-lợi-phất!
Nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những cảnh vật tuyệt diệu như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Kết luận mô tả: cõi ấy
trang nghiêm bằng cảnh trí nhiệm mầu.
· Ẩn ý/mật ý: Mọi cảnh giới ở Cực Lạc đều là pháp
nhắc nhở tâm, khiến người tu luôn tăng trưởng thiện căn.
· Ứng dụng: Quán tưởng cảnh Cực Lạc khi niệm Phật, để
khởi tâm hoan hỷ và quyết chí vãng sanh.
· Lỗi hiểu lầm: Cho rằng đó chỉ là “tranh vẽ tưởng tượng”;
thật ra là cảnh giới do công đức cảm thành.
Đức Phật mô tả
Cực Lạc bằng những hình ảnh trang nghiêm, nhưng ẩn sau là pháp biểu
tượng: giới–định–tuệ, phước–trí, tín–hạnh–nguyện… Cảnh đẹp là do tâm
thanh tịnh cảm thành, mục đích là để hành giả phát khởi lòng
tin – sự ưa thích – chí nguyện vãng sanh.
Này nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Phật
ấy, nhạc trời luôn trỗi, đất bằng vàng ròng. Mỗi ngày sáu lần mưa hoa
mạn-đà-la. Dân chúng nước ấy, mỗi buổi sáng thường lấy giỏ chứa đầy các đóa hoa
tươi đẹp, mang đi cúng dường mười vạn ức Đức Phật ở các cõi khác. Đến giờ cơm
trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi kinh hành. Xá-lợi-phất, nước
Cực Lạc được trang nghiêm bằng những điều tuyệt diệu như thế.
C. NHẠC TRỜI,
HOA TRỜI, CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT
12. “Này
nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Phật ấy, nhạc trời luôn trỗi, đất bằng vàng ròng.”
· Nghĩa hiển bày: Ở Cực Lạc luôn có âm nhạc
vi diệu vang lên, đất toàn là vàng ròng.
·
Thuật ngữ:
o Nhạc trời: âm thanh vi diệu, không do người tấu mà tự nhiên phát ra.
o
Vàng ròng: kim loại quý nhất, biểu trưng sự kiên cố, thanh tịnh.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Nhạc trời” là pháp âm – mọi âm thanh đều nhắc nhở
hành giả hướng thiện, không còn lời thị phi.
o
“Đất vàng ròng” tượng trưng cho tâm kiên cố, sáng sạch,
không còn cấu nhiễm.
· Ứng dụng: Người tu nên “nghe nhạc Phật pháp”: tức là
chọn âm thanh lành (tụng kinh, niệm Phật, giảng pháp) để nuôi tâm.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ là “cõi đó chỉ để hưởng thụ âm nhạc,
vàng bạc”; thực chất nói về tâm cảnh thanh tịnh, cao quý.
13. “Mỗi
ngày sáu lần mưa hoa mạn-đà-la.”
·
Nghĩa hiển bày: Sáu thời trong ngày, trời
rưới xuống hoa mạn-đà-la.
·
Thuật ngữ: Mạn-đà-la hoa (mandārava): loài hoa
cõi trời, biểu trưng sự cát tường.
· Ẩn ý/mật ý: Sáu lần ứng với lục thời tu hành
(sáng 06-10g, trưa 10-14g, chiều 14-18g, tối 18-22g, nửa
đêm 22-02g, gần sáng 02-06g). Nghĩa là mọi thời đều
có duyên nhắc nhở hành giả cúng dường, tu tập.
· Ứng dụng: Ở cõi này, ta có thể quán tưởng “mưa hoa”
chính là cơ hội tu tập trong sáu thời, không bỏ phí thời nào.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ đơn thuần là “cõi đó có hoa rơi đẹp
mắt”, mà quên rằng đây là biểu pháp cho sự tu sáu thời liên tục.
14. “Dân
chúng nước ấy, mỗi buổi sáng thường lấy giỏ chứa đầy các đóa hoa tươi đẹp, mang
đi cúng dường mười vạn ức Đức Phật ở các cõi khác.”
· Nghĩa hiển bày: Người dân Cực Lạc mỗi sáng
lấy hoa để cúng dường vô số chư Phật.
· Thuật ngữ: Cúng dường không chỉ dâng vật phẩm,
mà là tôn kính, học theo, phụng hành.
·
Ẩn ý/mật ý: Đây là cảnh giới mà người dân hằng
ngày đều lấy tâm cung kính Phật làm việc chính yếu. Cúng hoa nghĩa là dâng
tâm thanh tịnh cho chư Phật.
· Ứng dụng: Học theo, ta có thể niệm Phật – quán
Phật – lễ Phật mỗi sáng như một cách “cúng dường mười phương”.
· \Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng “phải có hoa thật mới cúng dường
được”; thực ra quan trọng nhất là tâm hoa (tâm thanh tịnh,
hoan hỷ).
15. “Đến
giờ cơm trưa, mọi người đều về kịp nước mình để ăn cơm rồi kinh hành.”
· Nghĩa hiển bày: Sau khi đi cúng dường, họ
quay về ăn cơm trưa và đi kinh hành.
· Thuật ngữ:
o
Kinh hành: đi thong thả trong chánh niệm, vừa đi vừa niệm Phật, niệm pháp.
· Ẩn ý/mật ý: Dù đã ở cảnh giới thanh tịnh, sinh hoạt vẫn
có quy luật, trật tự, thiền vị – không phóng dật.
· Ứng dụng: Sau mỗi bữa ăn, nên tập đi kinh hành niệm
Phật, để chuyển hóa năng lượng và duy trì chánh niệm.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng Cực Lạc là cõi chỉ hưởng thụ,
không cần sinh hoạt; thật ra mọi hoạt động đều trong chánh pháp.
16. “Xá-lợi-phất,
nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những điều tuyệt diệu như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Kết luận: Cõi Cực Lạc trang
nghiêm với những sự việc nhiệm mầu.
· Ẩn ý/mật ý: Mọi cảnh vật, sinh hoạt đều có tác dụng giúp
tăng trưởng công đức và trí tuệ. Không một chi tiết nào là vô ích.
· Ứng dụng: Nhìn lại cuộc sống hiện tại, hãy biến từng
việc (nghe, ăn, đi, đứng) thành một thời khóa tu tập, giống
như người dân Cực Lạc.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ đây chỉ là cảnh giới “thần tiên huyền
ảo”; thật ra Phật muốn cho ta một mẫu hình lý tưởng của đời sống tu tập
viên mãn.
Cõi Cực Lạc
không phải chỉ là nơi hưởng thụ sắc – thanh – hương, mà là môi trường
toàn thiện, trong đó mỗi âm thanh, hình ảnh, hoạt động đều trở thành duyên
trợ đạo. Mục đích là làm cho chúng sinh luôn sống trong chánh niệm,
gieo trồng căn lành, hướng đến giác ngộ.
Này nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Cực
Lạc, luôn có những loại chim nhiều màu sắc như Hạc trắng, Khổng tước, Anh vũ,
Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già và Cộng mạng. Những loài chim này, ngày đêm sáu thời,
thường hót lên những thanh âm hòa nhã. Âm thanh ấy diễn bày các pháp môn ngũ
căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần, bát thánh đạo phần... Chúng sanh nghe được những
pháp âm như thế đều niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.
Xá-lợi-phất, các loài chim ấy không
phải do nghiệp báo sanh ra. Tại sao? Vì ở nước Phật kia không có ba nẻo đường
tăm tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Xá-lợi-phất! Ở nước ấy danh từ “ác
đạo” còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo. Những loài chim kia đều do
Phật A-di-đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm được lưu truyền rộng
khắp.
Xá-lợi-phất! Ở nước Phật ấy, mỗi khi
có gió nhẹ thổi đến, các hàng cây và các màn lưới châu báu lay động, phát những
âm thanh tuyệt diệu, giống như trăm ngàn nhạc khí cùng lúc trỗi lên. Chúng sanh
nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia thì đều niệm Phật, niệm Pháp và niệm
Tăng. Xá-lợi-phất! Nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những cảnh diệu kì như
thế.
D. ÂM THANH CỰC
LẠC, CHIM & GIÓ ĐỀU THUYẾT PHÁP
17. “Này
nữa, Xá-lợi-phất! Ở nước Cực Lạc, luôn có những loại chim nhiều màu sắc như Hạc
trắng, Khổng tước, Anh vũ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già và Cộng mạng. Những loài
chim này, ngày đêm sáu thời, thường hót lên những thanh âm hòa nhã. Âm thanh ấy
diễn bày các pháp môn ngũ căn, ngũ lực, thất bồ-đề phần, bát thánh đạo phần...”
· \Nghĩa hiển bày: Ở Cực Lạc có nhiều loài
chim đẹp, ngày đêm hót ra âm thanh hòa nhã, trong đó hàm chứa giáo pháp quan
trọng:
o
Ngũ căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ.
o
Ngũ lực: sức mạnh của tín, tấn, niệm, định, tuệ.
o
Thất bồ-đề phần: bảy yếu tố giác ngộ: Trạch
pháp (phân tích, biết phân biệt đúng sai),
Tinh tấn (chăm chỉ, kiên trì), Hỷ
(tâm hoan hỷ), Khinh an (tâm thức khinh
an, sảng khoái), Niệm (tỉnh giác),
Định (có sự tập trung lắng đọng), Xả (lòng buông xả, không câu chấp).
o
Bát thánh đạo phần: tám con đường đưa đến giải
thoát (Chánh kiến, tư duy, ngữ, nghiệp, mạng, tinh tấn, niệm, định).
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Chim ở đây không chỉ là chim thật, mà là biểu pháp cho
mọi âm thanh đều trở thành pháp âm giác ngộ.
o
“Ngày đêm sáu thời” tức luôn luôn, không gián đoạn →
gợi ý hành giả phải thường xuyên nhớ pháp.
· Ứng dụng: Khi nghe bất kỳ âm thanh nào (chim hót, gió
thổi, chuông chùa), hãy quán tưởng như là “tiếng nhắc nhở niệm Phật, niệm Pháp,
niệm Tăng”.
· Lỗi hiểu lầm: Nhiều người chấp tướng, nghĩ rằng đó là loài
chim “hưởng phước báo”; thật ra là Phật biến hóa để thuyết pháp.
18. “Chúng
sanh nghe được những pháp âm như thế đều niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tăng.”
· Nghĩa hiển bày: Người dân Cực Lạc nghe pháp
âm từ chim, liền phát tâm nhớ nghĩ Tam Bảo.
· Ẩn ý/mật ý: Mọi cảnh duyên ở Cực Lạc đều đưa về tam
quy y – Phật, Pháp, Tăng, không bao giờ rời khỏi chính đạo.
· Ứng dụng: Khi niệm Phật, nếu tâm tán loạn, hãy nhắc
mình: “Nghe âm thanh này cũng là nhắc mình quay về Tam Bảo”.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng niệm Phật chỉ là “tụng miệng”;
thật ra quan trọng là tâm luôn quay về Tam Bảo.
19. “Xá-lợi-phất,
các loài chim ấy không phải do nghiệp báo sanh ra. Tại sao? Vì ở nước Phật kia
không có ba nẻo đường tăm tối là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.”
· Nghĩa hiển bày: Chim Cực Lạc không do
nghiệp mà có, vì ở đó không có ba đường ác.
· Thuật ngữ: Ba ác đạo: địa ngục (đau khổ dữ
dội), ngạ quỷ (đói khát), súc sanh (si mê).
· Ẩn ý/mật ý: Cực Lạc là cảnh giới thanh tịnh,
không còn dấu vết nghiệp xấu. Tất cả hiện tượng nơi ấy đều là Phật hóa
hiện để giáo hóa.
· Ứng dụng: Nhắc nhở hành giả: muốn sinh về Cực Lạc,
phải dứt ác đạo trong tâm (tâm sân = địa ngục, tâm tham = ngạ
quỷ, tâm si = súc sanh).
· Lỗi hiểu lầm: Có người thắc mắc: “Sao lại còn có chim ở
Cực Lạc?” – Phật đã giải thích rõ: không do nghiệp sinh mà do Phật hóa
hiện.
20. “Xá-lợi-phất!
Ở nước ấy danh từ ‘ác đạo’ còn không có, huống hồ là sự thực về ác đạo. Những
loài chim kia đều do Phật A-di-đà biến hóa ra với mục đích là làm cho pháp âm
được lưu truyền rộng khắp.”
· Nghĩa hiển bày: Ngay cả khái niệm “ác đạo”
cũng không tồn tại ở Cực Lạc. Chim do Phật hóa hiện để truyền pháp.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Điều này nhấn mạnh Cực Lạc là cảnh giới tuyệt đối thanh tịnh,
không còn chút bóng dáng khổ đau.
o “Phật biến hóa” → mọi hiện tượng trong cõi ấy đều là phương
tiện giáo hóa.
· Ứng dụng: Tập thấy trong đời mình: mỗi cảnh, mỗi duyên
cũng là “Phật biến hóa” để nhắc nhở, thử thách ta tu tập.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ rằng Phật A-di-đà “chỉ có cảnh đẹp” để
vui; thật ra mục đích là giáo hóa – nhắc nhở niệm Tam Bảo.
21. “Xá-lợi-phất!
Ở nước Phật ấy, mỗi khi có gió nhẹ thổi đến, các hàng cây và các màn lưới châu
báu lay động, phát những âm thanh tuyệt diệu, giống như trăm ngàn nhạc khí cùng
lúc trỗi lên. Chúng sanh nước ấy mỗi khi nghe các âm thanh kia thì đều niệm Phật,
niệm Pháp và niệm Tăng.”
· Nghĩa hiển bày: Khi gió thổi, cây báu và
lưới báu vang âm thanh như nhạc trời. Người nghe đều liền nhớ Tam Bảo.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Đây là cảnh giới tịnh duyên: gió thổi, lá rung, lưới
lay – tất cả đều trở thành pháp âm.
o
So với Ta-bà: gió thổi có khi gây khó chịu (bão tố), còn ở Cực Lạc thì
gió là duyên trợ niệm.
· Ứng dụng: Tập quán chiếu: nghe gió, tiếng mưa, tiếng
động → coi như “tiếng nhắc niệm Phật”.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ đây chỉ là “nhạc cảnh giải trí”; thật
ra Phật muốn dạy môi trường tu tập lý tưởng.
22. “Xá-lợi-phất!
Nước Cực Lạc được trang nghiêm bằng những cảnh diệu kì như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Kết luận mô tả: cảnh Cực
Lạc diệu kỳ, khác hẳn thế gian.
· Ẩn ý/mật ý: Mọi cảnh ở Cực Lạc đều hướng một mục đích
duy nhất: khiến người không bao giờ quên Tam Bảo.
· ng dụng: Người niệm Phật cần tạo môi trường tu cho
mình: âm thanh, hình ảnh, bạn bè, đạo tràng… đều hướng về Tam
Bảo.
Cõi Cực Lạc là
thế giới của pháp âm, nơi chim, gió, cây, lưới… đều trở thành
phương tiện giáo hóa. Ý nghĩa thâm sâu là: ở cảnh giới ấy, không có
duyên nào khiến chúng sinh quên Tam Bảo. Mọi âm thanh đều làm phát
khởi chánh niệm, chánh tín, chánh hạnh.
Xá-lợi-phất! Ông nghĩ sao? Vì sao
Đức Phật kia có hiệu là A-di-đà? Xá-lợi-phất! Vì Đức Phật ấy có ánh sáng vô
lượng, chiếu soi đến tất cả các cõi nước trong mười phương mà không hề bị
chướng ngại. Vì vậy nên Ngài được gọi là A-di-đà.
Hơn nữa, Xá-lợi-phất! Thọ mạng của
Đức Phật ấy và của chúng sanh trong nước Ngài thật vô lượng vô biên a-tăng-kỳ
kiếp, vì vậy cho nên Ngài có danh hiệu là A-di-đà.
E. Ý NGHĨA DANH
HIỆU A-DI-ĐÀ
23. “Xá-lợi-phất!
Ông nghĩ sao? Vì sao Đức Phật kia có hiệu là A-di-đà?”
· Nghĩa hiển bày: Đức Phật Thích-ca đặt câu
hỏi để khơi gợi trí suy xét của Xá-lợi-phất, rồi mới giải thích ý nghĩa danh
hiệu A-di-đà.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Câu hỏi này là phương tiện khai thị, giúp đại chúng
không thụ động, mà tự vận dụng trí để lắng nghe.
o
Cũng cho thấy danh hiệu Phật không phải ngẫu nhiên, mà
chứa đựng pháp sâu.
24. “Xá-lợi-phất!
Vì Đức Phật ấy có ánh sáng vô lượng, chiếu soi đến tất cả các cõi nước trong mười
phương mà không hề bị chướng ngại. Vì vậy nên Ngài được gọi là A-di-đà.”
· Nghĩa hiển bày: Danh hiệu A-di-đà nghĩa là Vô
Lượng Quang: ánh sáng vô lượng, chiếu khắp mười phương, không bị ngăn
ngại.
·
Thuật ngữ:
o
Vô lượng quang: ánh sáng không giới hạn, không thời gian, không biên cương.
o
Ánh sáng Phật: tượng trưng cho trí tuệ, từ bi, công đức.
· Ẩn ý/mật ý:
o
“Ánh sáng vô lượng” nghĩa là trí tuệ vô biên của Phật
A-di-đà, soi sáng tận cùng vô minh.
o
“Không chướng ngại” → trí tuệ và từ bi Phật thấu suốt tất cả,
không bị che lấp bởi nghiệp lực chúng sanh.
·
Ứng dụng: Khi niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”, quán tưởng
như đang được ánh sáng Phật chiếu soi, trừ tan vô minh.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ ánh sáng chỉ là “hào quang vật lý” →
thực chất là ánh sáng trí tuệ – từ bi.
25. “Hơn
nữa, Xá-lợi-phất! Thọ mạng của Đức Phật ấy và của chúng sanh trong nước Ngài thật
vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, vì vậy cho nên Ngài có danh hiệu là A-di-đà.”
· Nghĩa hiển bày: Danh hiệu A-di-đà cũng
nghĩa là Vô Lượng Thọ: thọ mạng Phật và chúng sanh Cực Lạc dài
lâu vô tận, trải qua a-tăng-kỳ kiếp (thời gian không thể đếm).
·
Thuật ngữ:
o
Vô lượng thọ: sống lâu vô cùng, tượng trưng cho sự bền vững của Chánh pháp.
o
A-tăng-kỳ: (10140) số vô lượng, không thể tính đếm.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Vô lượng thọ” chính là biểu tượng của phước đức viên mãn,
không cùng tận.
o
Người sinh về Cực Lạc cũng được “vô lượng thọ”, tức thoát khỏi
sinh tử luân hồi, sống trong pháp lạc vĩnh hằng.
· Ứng dụng: Khi niệm Phật, quán rằng mình đang gieo
duyên với trí tuệ vô lượng và thọ mạng vô lượng,
thoát khỏi sợ hãi vô thường.
· Lỗi hiểu lầm: Nghĩ chỉ là “sống lâu, bất tử”; thực chất
“vô lượng thọ” nghĩa là không còn cái chết trong vòng luân hồi khổ đau.
Danh hiệu A-di-đà
có hai ý chính:
1.
Vô lượng quang – ánh sáng trí tuệ, từ bi, công đức chiếu khắp không ngăn ngại.
2.
Vô lượng thọ – thọ mạng không cùng, tượng trưng sự giải thoát khỏi vô thường sinh
tử.
👉 Niệm “A-di-đà Phật” không chỉ là gọi tên một vị Phật, mà là thể
nhập trí tuệ vô lượng và thọ mạng vô lượng.
Xá-lợi-phất! Từ khi Phật A-di-đà
thành đạo đến nay tính ra đã mười kiếp. Này nữa, Xá-lợi-phất! Số đệ tử Thanh
văn đã chứng quả A-la-hán của Đức Phật ấy nhiều vô lượng, không thể dùng toán
học tính biết được. Số đệ tử Bồ-tát của Ngài cũng nhiều như thế.
Này Xá-lợi-phất! Nước Phật kia được
trang nghiêm bằng những việc diệu kì như thế.
Này nữa Xá-lợi-phất! Tất cả những ai
sinh về nước Cực Lạc đều trụ ở giai vị Bất thoái chuyển. Số lượng Bồ-tát Nhất
sinh bổ xứ trong đó rất nhiều, không thể tính đếm được, chỉ có thể dùng danh từ
vô số a-tăng-kỳ để diễn tả mà thôi.
Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh khi
nghe nói đến nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước ấy. Vì sao? Vì sanh
về nước ấy sẽ được gần gũi với rất nhiều bậc thiện nhân cao đức.
F.
THÁNH CHÚNG VÀ ĐỊA VỊ VÃNG SANH
26. “Xá-lợi-phất!
Từ khi Phật A-di-đà thành đạo đến nay tính ra đã mười kiếp.”
·
Nghĩa hiển bày: Phật A-di-đà đã thành Phật
từ 10 kiếp về trước (theo ngôn ngữ ước lệ).
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Mười kiếp” không chỉ là con số, mà là cách nói đã thành Phật
từ rất lâu → công đức của Ngài viên mãn, thệ nguyện không hư dối.
o
So sánh: Đức Thích-ca mới thành đạo vài nghìn năm, còn A-di-đà đã thành
đạo từ lâu xa → đủ niềm tin để nương tựa.
·
Ứng dụng: Khi niệm Phật, hãy tin chắc A-di-đà là Phật
thật sự đã thành, không phải huyền thoại.
27. “Này
nữa, Xá-lợi-phất! Số đệ tử Thanh văn đã chứng quả A-la-hán của Đức Phật ấy nhiều
vô lượng, không thể dùng toán học tính biết được. Số đệ tử Bồ-tát của Ngài cũng
nhiều như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Cõi Cực Lạc có vô số Thanh
văn (A-la-hán) và Bồ-tát.
· Thuật ngữ:
o
Thanh văn: đệ tử nghe pháp Tứ đế, tu chứng giải thoát.
o
A-la-hán: bậc đã đoạn trừ phiền não, thoát luân hồi.
o
Bồ-tát: hành giả phát nguyện độ sinh, tu lục độ, cầu Phật đạo.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Nói về số lượng nhiều vô tận, để chỉ Cực Lạc là đạo tràng thánh
chúng.
o
Người về đó sẽ có môi trường tu tập với bạn lành toàn bậc Thánh.
· Ứng dụng: Tu học rất cần môi trường. Chúng ta hiện ở
Ta-bà thường bị bạn ác lôi kéo; Cực Lạc thì chỉ toàn bạn lành.
· Lỗi hiểu lầm: Có người nghĩ Cực Lạc chỉ có Phật A-di-đà;
thật ra còn có vô số Thanh văn, Bồ-tát trợ duyên.
28. “Này
Xá-lợi-phất! Nước Phật kia được trang nghiêm bằng những việc diệu kì như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Cõi nước ấy thù thắng chính
vì có thánh chúng đông đảo.
· Ẩn ý/mật ý: Trang nghiêm của cõi Phật không chỉ do cảnh
vật, mà quan trọng là hội chúng toàn bậc Thánh trí.
29. “Này
nữa Xá-lợi-phất! Tất cả những ai sinh về nước Cực Lạc đều trụ ở giai vị Bất
thoái chuyển.”
· Nghĩa hiển bày: Người sinh về Cực Lạc đều
chứng quả vị bất thoái chuyển – không còn thối lui trên đường
đạo.
·
Thuật ngữ:
o
Bất thoái: không rơi trở lại phàm phu. Có 3 loại bất thoái:
1. Vị bất thoái: không thoái lui về hàng
phàm phu.
2. Hạnh bất thoái: không thoái lui trong pháp
hạnh Bồ-tát.
3. Niệm bất thoái: không quên tâm bồ-đề.
· Ẩn ý/mật ý: Đây là sự đảm bảo chắc chắn:
vãng sanh rồi thì con đường giải thoát 100% thành tựu.
· Ứng dụng: Người tu Tịnh độ, chỉ cần đủ Tín–Nguyện–Hạnh
được vãng sanh thì coi như đã vào hàng bất thoái.
·
Lỗi hiểu lầm: Có người nghĩ vãng sanh còn có thể rớt xuống
ác đạo; kinh này khẳng định không thể thối lui nữa.
30. “Số
lượng Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ trong đó rất nhiều, không thể tính đếm được, chỉ
có thể dùng danh từ vô số a-tăng-kỳ để diễn tả mà thôi.”
· Nghĩa hiển bày: Ở Cực Lạc có vô số Bồ-tát
Nhất sinh bổ xứ – những vị chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật.
·
Thuật ngữ:
o
Nhất sinh bổ xứ: địa vị Bồ-tát chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật, ví dụ: Di-lặc
Bồ-tát.
· Ẩn ý/mật ý: Người sinh về Cực Lạc, căn cơ cao thì tiến
tu rất nhanh, có thể đạt đến địa vị Bổ xứ.
· Ứng dụng: Đây là niềm khích lệ cho hành giả: vãng sanh
không phải chỉ để hưởng lạc, mà còn để tiến nhanh đến quả Phật.
31. “Xá-lợi-phất!
Tất cả chúng sinh khi nghe nói đến nước Cực Lạc đều nên phát nguyện sanh về nước
ấy. Vì sao? Vì sanh về nước ấy sẽ được gần gũi với rất nhiều bậc thiện nhân cao
đức.”
· Nghĩa hiển bày: Đức Phật dạy rõ: ai nghe
danh Cực Lạc đều nên phát nguyện vãng sanh, vì sẽ được gần gũi chư Thánh hiền. (Lần đầu trong kinh, Đức Phật khuyên phát
nguyện vãng sanh)
·
Ẩn ý/mật ý: Đây chính là chỗ cốt yếu của pháp
môn Tịnh độ: nghe → tin → nguyện → hành.
· Ứng dụng: Người tu phải thường xuyên phát nguyện:
“Nguyện khi lâm chung, con được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, thân cận A-di-đà
Phật cùng chư Bồ-tát, Thánh chúng”.
·
Lỗi hiểu lầm: Có người ngại ngùng, không dám phát nguyện
vì sợ “chưa đủ công đức”; nhưng Phật dạy rõ: chỉ cần nghe – tin –
nguyện là đủ điều kiện bước đầu.
· Cực Lạc không chỉ đẹp đẽ về
cảnh, mà còn thù thắng về thánh chúng đông đảo.
· Người vãng sanh đều được
bất thoái chuyển, chắc chắn tiến đến quả Phật.
· Vì vậy, nghe nói đến
Cực Lạc thì nên lập tức phát nguyện vãng sanh, không chần chừ.
Xá-lợi-phất! Không thể với điều kiện
một ít phước đức căn lành mà được sinh về cõi ấy. Vì vậy, Xá-lợi-phất! Nếu
người nào muốn sinh Tịnh độ, khi nghe đến Phật A-di-đà phải liền ghi nhớ, tụng
niệm danh hiệu Ngài, không để gián đoạn, hoặc trong vòng một ngày, hai ngày, ba
ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày đạt đến trạng thái nhất tâm bất
loạn. Đến khi lâm chung, người ấy sẽ được thấy Phật A-di-đà và các vị Thánh cõi
kia hiện ra trước mặt. Lúc lìa đời, tâm ý người ấy không điên đảo tán loạn,
được sinh ngay về nước Cực Lạc.
Xá-lợi-phất! Vì thấy được lợi ích
lớn lao này, nên Như Lai muốn nói rằng nếu người nào nghe được những lời này,
hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.
G. PHÁP MÔN NIỆM
PHẬT, NHẤT TÂM, VÃNG SANH
32. “Xá-lợi-phất!
Không thể với điều kiện một ít phước đức căn lành mà được sinh về cõi ấy.”
· Nghĩa hiển bày: Vãng sanh Cực Lạc không
phải chuyện dễ dàng, chỉ một chút phước đức nhỏ bé thì chưa đủ.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Đây là cảnh giới tối thắng, thanh tịnh → cần công đức
và tín nguyện chân thật.
o
Nhưng điều kiện chính yếu không phải là tích lũy phước
nhiều, mà là tin – nguyện – niệm đúng pháp.
· Ứng dụng: Đừng chủ quan nghĩ “làm vài việc thiện là
đủ”. Quan trọng là có niềm tin và phát nguyện mạnh mẽ.
33. “Vì
vậy, Xá-lợi-phất! Nếu người nào muốn sinh Tịnh độ, khi nghe đến Phật A-di-đà phải
liền ghi nhớ, tụng niệm danh hiệu Ngài, không để gián đoạn, hoặc trong vòng một
ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày hay bảy ngày đạt đến trạng
thái nhất tâm bất loạn.”
·
Nghĩa hiển bày: Người muốn sinh Tịnh độ thì
phải niệm danh hiệu A-di-đà, liên tục không gián đoạn, từ 1 đến 7 ngày, đạt nhất
tâm bất loạn.
·
Thuật ngữ:
o
Nhất tâm bất loạn: tâm chuyên nhất nơi danh hiệu Phật, không bị vọng tưởng chi phối. Có
2 mức:
1. Sự nhất tâm: tâm chuyên chú, không tán
loạn.
2. Lý nhất tâm: tâm chứng ngộ vô ngã, tâm
và Phật không hai.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Một ngày đến bảy ngày” là phương tiện – chỉ cần tâm
chuyên nhất, không nhất thiết phải đủ số ngày, mà là nhấn mạnh sự tinh tấn.
o
“Ghi nhớ, tụng niệm” → niệm không chỉ bằng miệng, mà còn bằng tâm và ý.
· Ứng dụng: Người sơ cơ có thể bắt đầu bằng việc chọn
thời khóa ấn định (sáng – tối) để niệm Phật, tập tâm chuyên nhất.
· Lỗi hiểu lầm: Có người nghĩ phải đủ đúng “7 ngày liên tục”
mới vãng sanh; thật ra chỉ cần tâm thành, nhất tâm trong sát-na cũng đủ.
34. “Đến
khi lâm chung, người ấy sẽ được thấy Phật A-di-đà và các vị Thánh cõi kia hiện
ra trước mặt. Lúc lìa đời, tâm ý người ấy không điên đảo tán loạn, được sinh
ngay về nước Cực Lạc.”
· Nghĩa hiển bày: Người nhất tâm niệm Phật sẽ
được Phật và Thánh chúng tiếp dẫn, ra đi an nhiên, không mê loạn, vãng sanh Cực
Lạc.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Thấy Phật A-di-đà” = cảm ứng đạo giao, do tâm mình tương ứng
với tâm Phật.
o
“Không điên đảo tán loạn” → cái quan trọng nhất của lúc lâm chung: tâm
an định, không bị nghiệp lôi kéo.
· Ứng dụng: Pháp hộ niệm cho người sắp mất chính là giúp
họ giữ chánh niệm, không loạn động, niệm Phật liên tục.
· Lỗi hiểu lầm: Có người cho rằng “chỉ chờ lúc chết mới niệm
Phật”; thật ra nếu không tu tập từ trước, đến khi chết tâm rối loạn sẽ khó
nhiếp niệm.
35. “Xá-lợi-phất!
Vì thấy được lợi ích lớn lao này, nên Như Lai muốn nói rằng nếu người nào nghe
được những lời này, hãy nên phát nguyện sinh về nước ấy.”
· Nghĩa hiển bày: Kết thúc đoạn, Phật nhấn
mạnh: ai nghe được pháp này thì nên phát nguyện vãng sanh, vì lợi ích quá lớn. (Lần thứ hai trong kinh, Đức Phật khuyên
phát nguyện vãng sanh)
· Ẩn ý/mật ý:
o
Phát nguyện là cửa ngõ quan trọng để kết duyên với Cực
Lạc.
o
Dù tu nhiều pháp môn, nếu không phát nguyện, thì duyên chưa gắn với
Tịnh độ.
· Ứng dụng: Người tu nên thường xuyên đọc lời nguyện
vãng sanh, để tâm hằng hướng về Cực Lạc.
· Vãng sanh Cực Lạc không phải do chút ít phước đức mà
được, mà phải có niềm tin, phát nguyện, nhất tâm niệm Phật.
· Chỉ cần một niệm chí thành khi lâm chung, liền được Phật và Thánh chúng
tiếp dẫn.
·
Do vậy, nghe pháp này thì phải phát nguyện vãng sanh –
đó là chỗ rốt ráo của Kinh A-di-đà.
Xá-lợi-phất! Như hiện tại Như Lai
đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn của Phật A-di-đà thì
tại phương Đông có các vị Phật A-súc-bệ, Phật Tu-di Tướng, Phật Đại Tu-di, Phật
Tu-di Quang, Phật Diệu Âm và các vị Phật khác, nhiều như số cát sông Hằng, vị nào
cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm
cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả chúng
sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất, tại phương Nam có các
vị Phật Nhật Nguyệt Đăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật Tu-di
Đăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn và các vị Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị
nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao
trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả
chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư
Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất, tại phương Tây có các
vị Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Vô Lượng Tràng, Phật Đại Quang,
Phật Đại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang và các vị Phật khác nhiều như số
cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày tướng
lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lời thành thật
rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức
Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này.”
Xá-lợi-phất, tại phương Bắc có các
vị Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng
Minh và các vị Phật khác nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại
quốc độ của mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại
thiên thế giới và nói lên lời thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào
kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất, tại phương Dưới có các
vị Phật Danh Quang, Phật Đạt-ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp và các vị Phật
khác nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự
triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói
lên lời thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả
Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
Xá-lợi-phất, tại phương Trên có các
vị Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Đại
Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta-la Thọ Vương, Phật Bảo Hoa
Đức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu-di Sơn và các vị Phật khác nhiều
như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của mình, tự triển bày
tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới và nói lên lời
thành thật rằng: “Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị
Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này”.
H. CHƯ PHẬT MƯỜI
PHƯƠNG ĐỒNG TÁN THÁN
36. “Xá-lợi-phất!
Như hiện tại Như Lai đang ca ngợi những lợi ích và công đức không thể nghĩ bàn
của Phật A-di-đà…”
·
Nghĩa hiển bày: Đức Thích-ca xác nhận:
chính Ngài đang khen ngợi công đức A-di-đà.
·
Ẩn ý/mật ý:
o Đây là chứng tín đầu tiên: bản thân một vị Phật đã ca
ngợi.
o
Nhưng chỉ một vị Phật nói thì chúng sinh còn có thể nghi. Vì vậy, cần
có sự đồng chứng của vô số Phật khác.
37. “Tại
phương Đông… phương Nam… phương Tây… phương Bắc… phương Trên… phương Dưới… có
các vị Phật nhiều như số cát sông Hằng, vị nào cũng đang ngồi tại quốc độ của
mình, tự triển bày tướng lưỡi rộng dài bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới
và nói lên lời thành thật rằng: ‘Tất cả chúng sinh nên tin vào kinh Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này’.”
· Nghĩa hiển bày: Ở khắp mười phương (Đông,
Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới), vô số chư Phật đều đồng chứng minh, đồng thanh
khuyên chúng sinh hãy tin vào kinh này.
·
Thuật ngữ:
o
Tam thiên đại thiên thế giới: hệ thống vũ trụ rộng lớn, biểu thị cảnh giới bao la.
o
Tướng lưỡi rộng dài: tướng tốt của Phật, biểu tượng cho lời
chân thật, không hư dối.
o
Sông Hằng: dòng sông lớn ở Ấn Độ, có vô số cát → chỉ số lượng vô biên.
·
Ẩn ý/mật ý:
o “Tướng lưỡi rộng dài” → dấu ấn lời Phật chân thật, không hư dối,
đã được chứng minh bằng công đức tu hạnh vô lượng kiếp.
o
Việc chư Phật đồng loạt khuyên tin là để chúng sinh không còn nghi ngờ,
vì một pháp môn được tất cả Phật hộ niệm thì chắc chắn là pháp môn thù
thắng bậc nhất.
o
“Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm”
chính là tên khác của Kinh A-di-đà → nghĩa là kinh này được tất cả chư
Phật hộ trì, bảo chứng.
Ý nghĩa thực tiễn
· Vì sao Phật phải nhờ đến vô số chư Phật khác cùng
chứng minh?
o
Vì chúng sinh thời Mạt pháp căn cơ kém, tâm nhiều nghi hoặc.
o
Nếu chỉ một mình Thích-ca nói, nhiều người sẽ nghi: “Có thật không?”.
o Nhưng nếu mười phương chư Phật đều đồng thanh xác nhận → đó là chân
lý không thể sai lầm.
·
Thông điệp cho hành giả:
o
Người niệm Phật vãng sanh không phải chỉ là tín nguyện của riêng mình,
mà còn được tất cả chư Phật ủng hộ, hộ trì.
o
Như người đi đường, có vô số bậc Thánh hiền bảo chứng → chỉ cần mình
chịu đi thì chắc chắn đến đích.
· Mười phương chư Phật, nhiều như cát sông Hằng, đồng loạt tán thán pháp
môn Tịnh độ.
· Sự kiện “tướng lưỡi rộng dài” nhấn mạnh rằng lời Phật dạy là
chân thật, không hư dối.
· Vì thế, hành giả Tịnh độ phải dứt trừ mọi nghi ngờ,
kiên quyết tin sâu – nguyện thiết – hành chuyên.
Xá-lợi-phất! Ông nghĩ sao? Tại sao
gọi kinh này là kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở
Hộ Niệm?
Sở dĩ như thế, là vì những người nào
nghe được kinh này mà thọ trì và nghe được danh hiệu Phật A-di-đà rồi một lòng
chuyên niệm thì những vị ấy nhất định được các Đức Phật giúp đỡ và bảo vệ, tất
cả sẽ đạt tới quả vị giác ngộ cao tột, không còn bị thoái chuyển. Vì vậy cho
nên các ông hãy tin vào lời Như Lai đang nói, và cũng là lời các Đức Phật khác
đang nói.
Xá-lợi-phất! Nếu có người đã phát
nguyện thì đã sanh về nước ấy; đang phát nguyện thì đang sanh về nước ấy; sẽ
phát nguyện thì sẽ sanh về nước ấy. Tất cả đều được không lui sụt đạo Vô thượng
chánh đẳng chánh giác. Vì thế, nếu người nào có lòng tin thì nên phát nguyện
sanh về cõi nước của Ngài.
I. TÊN KINH VÀ BẢO
CHỨNG VÃNG SANH
38. “Xá-lợi-phất!
Ông nghĩ sao? Tại sao gọi kinh này là kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm?”
· Nghĩa hiển bày: Phật nêu câu hỏi, rồi tự
giải thích tại sao kinh này có tên như vậy.
·
Thuật ngữ:
o
Xưng Tán: ca ngợi, tán thán.
o
Bất Khả Tư Nghị: công đức sâu xa vượt ngoài suy nghĩ, lời nói của phàm phu.
o
Chư Phật Sở Hộ Niệm: được tất cả chư Phật ủng hộ, gia hộ, nhớ nghĩ.
· Ẩn ý/mật ý: Tên kinh cũng chính là cốt tủy của
pháp môn: công đức niệm Phật vãng sanh là bất khả tư nghì, được chư
Phật đồng hộ niệm.
39. “Sở dĩ như thế, là vì những người nào nghe được
kinh này mà thọ trì và nghe được danh hiệu Phật A-di-đà rồi một lòng chuyên niệm
thì những vị ấy nhất định được các Đức Phật giúp đỡ và bảo vệ, tất cả sẽ đạt tới
quả vị giác ngộ cao tột, không còn bị thoái chuyển.”
· Nghĩa hiển bày: Người nghe kinh, tin nhận,
chuyên niệm danh hiệu A-di-đà sẽ được chư Phật trợ lực, bảo hộ, không bị lui
sụt trên con đường giác ngộ.
·
Điểm quan trọng:
o Thọ trì: không chỉ nghe qua rồi bỏ, mà là tiếp nhận, ghi nhớ, đem ra thực
hành.
o Chuyên niệm: tâm không tán loạn, chí thành niệm danh hiệu.
o
Không thoái chuyển: bảo chứng tuyệt đối, chắc chắn thành Phật.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Người niệm Phật không chỉ nương nơi công đức mình, mà còn có hàng
vô lượng chư Phật gia hộ.
o
Đây là “lực bất khả tư nghì” – khiến pháp môn Tịnh độ thù thắng bậc
nhất.
40. “Xá-lợi-phất!
Nếu có người đã phát nguyện thì đã sanh về nước ấy; đang phát nguyện thì đang
sanh về nước ấy; sẽ phát nguyện thì sẽ sanh về nước ấy.”
· Nghĩa hiển bày: Bất luận đã phát nguyện,
đang phát nguyện, hay sẽ phát nguyện, tất cả đều có nhân duyên vãng sanh.
·
Ẩn ý/mật ý:
o “Đã – đang – sẽ” nhấn mạnh tính bao dung của pháp môn:
chỉ cần có lòng tin và phát nguyện, thì chắc chắn được tiếp dẫn, không phân
biệt thời gian, căn cơ.
o
Người xưa gọi đây là “ba bậc phát nguyện, đều được vãng sanh”.
·
Ứng dụng:
o
Người đã phát nguyện thì kiên trì giữ vững.
o
Người đang phát nguyện thì củng cố niềm tin.
o
Người chưa phát nguyện thì nay khởi nguyện cũng kịp.
o
Tất cả đều “giao ước” với Phật A-di-đà.
41. “Tất
cả đều được không lui sụt đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì thế, nếu người
nào có lòng tin thì nên phát nguyện sanh về cõi nước của Ngài.”
· Nghĩa hiển bày: Ai phát nguyện đều chắc
chắn đạt bất thoái chuyển trên con đường thành Phật. (Lần thứ ba trong kinh, Đức Phật khuyên phát
nguyện vãng sanh)
·
Thuật ngữ:
o Vô thượng chánh đẳng chánh giác (Anuttara-samyak-sambodhi): quả vị Phật rốt ráo.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Vãng sanh không phải chỉ là “sống sung sướng ở Cực Lạc”, mà là bước
thẳng vào con đường thành Phật không thể lui sụt.
· Ứng dụng: Người niệm Phật cần nhớ: mục tiêu
cuối cùng không chỉ là vãng sanh, mà là thành Phật để độ khắp chúng sinh.
· Tên kinh “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ
Niệm” chính là khẳng định: công đức niệm Phật vãng sanh là thù thắng không thể
nghĩ bàn, được tất cả chư Phật bảo chứng.
· Ai phát nguyện (dù đã, đang hay sẽ) đều chắc chắn được vãng sanh, nhập
vào hàng bất thoái chuyển, tiến đến quả vị Phật.
· Do đó, điều cốt yếu là khởi lòng tin và phát nguyện ngay hôm
nay.
Xá-lợi-phất, trong khi Như Lai đang
ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của các Đức Phật, thì các Đức Phật cũng
đang ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Như Lai rằng: “Phật Thích-ca
Mâu-ni thật là hiếm có. Ngay trong cõi Ta-bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm là kiếp
trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sinh trược và mạng trược mà Ngài có
thể chứng đắc được quả vị giác ngộ tối thượng và còn tuyên thuyết cho chúng
sinh thế gian nghe những pháp môn rất khó tin nhận như thế.”
Xá-lợi-phất! Ông nên biết rằng, Như
Lai sống trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới được quả vị giác
ngộ vô thượng, lại còn giảng nói cho chúng sanh pháp môn rất khó tin nhận này,
đó là một việc làm thật là khó khăn."
Nghe Phật nói kinh này, Xá-lợi-phất,
các vị tì-kheo, trời, người, a-tu-la, v.v... ai cũng vui mừng, phát lòng tin
tưởng, tiếp nhận, lễ Phật và trở về trú xứ của mình.
J. ĐOẠN KẾT – LỜI
TÁN THÁN ĐỨC THÍCH-CA MÂU-NI VÀ CHÚNG HỘI HOAN HỶ
42.
“Xá-lợi-phất, trong khi Như Lai đang ca ngợi công đức
không thể nghĩ bàn của các Đức Phật, thì các Đức Phật cũng đang ca ngợi công đức
không thể nghĩ bàn của Như Lai rằng: ‘Phật Thích-ca Mâu-ni thật là hiếm có…’”
· Nghĩa hiển bày: Không chỉ Đức Thích-ca khen
A-di-đà và mười phương Phật, mà ngược lại, mười phương Phật cũng đồng thanh
khen ngợi Thích-ca Mâu-ni.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Thể hiện sự ấn chứng lẫn nhau giữa các vị Phật → khẳng
định lời dạy này tuyệt đối chân thật.
o
Khen ngợi Thích-ca là vì Ngài thị hiện ở cõi ngũ trược ác thế,
cảnh giới khổ đau nhất, mà vẫn thành Phật, lại còn mở ra pháp môn khó
tin mà dễ hành – Tịnh độ.
·
Thuật ngữ:
o
Ngũ trược: 5 sự ô nhiễm:
1) Kiếp trược
– thời đại suy đồi, đầy thiên tai dịch bệnh.
2) Kiến trược
– tà kiến lan tràn, không tin nhân quả, không tin Phật pháp.
3) Phiền não trược – tham, sân, si dấy khởi mạnh mẽ.
4) Chúng sinh trược – căn tánh cang cường, khó dạy.
5) Mạng trược
– thọ mạng ngắn ngủi, đời sống bất an.
43.
“Ngay trong cõi Ta-bà đầy dẫy năm yếu tố ô nhiễm… mà
Ngài có thể chứng đắc được quả vị giác ngộ tối thượng và còn tuyên thuyết cho
chúng sinh thế gian nghe những pháp môn rất khó tin nhận như thế.”
· Nghĩa hiển bày: Thành Phật trong thế giới
Ta-bà đã là hy hữu, nhưng việc giảng dạy pháp môn Tịnh độ – vốn dễ hành mà mầu
nhiệm – lại càng hy hữu hơn.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
“Khó tin” vì: pháp môn Tịnh độ quá thẳng tắt, quá dễ so với
công phu tự lực, khiến người trí thông thường hay nghi ngờ.
o
Nhưng cũng chính vì chúng sinh yếu kém, nên Phật mới ban pháp “dễ hành
mà chắc chắn” này.
o
Đây gọi là nan tín chi pháp (pháp khó tin).
44. “Xá-lợi-phất!
Ông nên biết rằng, Như Lai sống trong thế giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt
tới được quả vị giác ngộ vô thượng, lại còn giảng nói cho chúng sanh pháp môn rất
khó tin nhận này, đó là một việc làm thật là khó khăn.”
·
Nghĩa hiển bày: Thành Phật đã khó, mà khai
mở pháp môn này lại càng khó. Vì vậy, đây là đại ân lớn của Đức
Thích-ca.
·
Ẩn ý/mật ý:
o
Người nghe pháp môn này phải biết trân quý, khởi lòng tin,
đừng nghi ngờ hay xem thường.
o
“Khó” không phải vì hành trì khó, mà vì khó tin – khó tiếp nhận.
45. “Nghe
Phật nói kinh này, Xá-lợi-phất, các vị tì-kheo, trời, người, a-tu-la, v.v... ai
cũng vui mừng, phát lòng tin tưởng, tiếp nhận, lễ Phật và trở về trú xứ của
mình.”
· Nghĩa hiển bày: Toàn thể chúng hội đều hoan
hỷ, phát tâm tin nhận, kính lễ Phật rồi lui về.
·
Ý nghĩa:
o
Đây là ứng nghiệm tự nhiên: pháp môn Tịnh độ gieo vào
tâm chúng hội một niềm hoan hỷ và niềm tin sâu xa.
o
“Tin – vui – nhận” chính là tín tâm thanh tịnh.
· Đức Thích-ca được mười phương Phật khen ngợi vì đã thành Phật trong ngũ
trược ác thế, lại còn khai thị pháp môn Tịnh độ dễ hành khó tin.
· Chúng sinh nghe được pháp này phải vô cùng trân quý, dứt nghi
sanh tín, phát nguyện vãng sanh.
· Chúng hội lúc đó đều vui mừng, tin nhận → chính là lời nhắc cho ta:
tụng kinh A-di-đà hôm nay, cũng phải khởi tâm hoan hỷ, tin tưởng và thực hành.
IX. KỆ NGUYỆN SANH
Kệ Nguyện Sanh của Bồ-tát Thế Thân (Vasubandhu) – một bậc luận sư
lừng danh. Ngài đọc Kinh Vô Lượng Thọ, phát nguyện viết ra kệ này, được xem là
“tinh hoa Tịnh độ” vì gom lại cả cảnh giới Cực Lạc và tâm nguyện vãng sanh.
Kệ nguyện sanh không phải
chỉ là lời thơ ca, mà chính là tâm nguyện tha thiết của một bậc đại luận sư.
Ngài đã gom trọn tinh hoa Kinh Vô Lượng Thọ, hiển bày cảnh giới Cực Lạc nhiệm
mầu, đồng thời chỉ cho chúng ta con đường chân thật để được vãng sanh.
Mỗi câu kệ đều nhắc nhở
chúng ta ba điều cốt yếu:
· Tin sâu: Tin chắc có cõi Cực Lạc, có Đức A-di-đà, có bản
nguyện độ sinh không hư dối.
· Nguyện thiết: Phát tâm tha thiết cầu vãng sanh, không còn lưu
luyến Ta-bà nhiều khổ lụy.
· Hạnh
chuyên: Chấp trì danh hiệu
A-di-đà Phật, không gián đoạn, không xen tạp.
Trong kệ, cảnh giới Cực
Lạc được diễn tả vô cùng trang nghiêm: đất vàng, ao bảy báu, hoa sen lớn sáng
ngời, âm thanh vi diệu đều nói pháp. Tất cả không phải để chúng ta ngắm nhìn
cho vui, mà để gợi cho ta một niềm tin
sâu sắc rằng: ở nơi ấy, chúng ta
chắc chắn sẽ được an vui, thanh tịnh, và tiến tu đến
thành Phật.
Đặc biệt, lời nguyện cuối
cùng của Bồ-tát Thế Thân không chỉ vì bản thân, mà còn vì tất cả chúng sinh
cùng sanh về nước An Lạc. Đây chính là tâm Đại thừa, vừa tự
độ vừa độ tha. Người niệm Phật hôm nay, nếu giữ tâm nguyện ấy, thì dù một câu
Phật hiệu cũng đã chan chứa công đức không thể nghĩ bàn.
Nguyện cho đại chúng, sau
khi tụng Kệ Nguyện Sanh, ai ai cũng khởi tâm hoan hỷ, tâm kiên cố, nguyện thiết
tha, hành miên mật. Tín – Nguyện – Hạnh đủ đầy thì chắc chắn được Đức Phật
A-di-đà tiếp dẫn, vãng sanh Tây phương Cực Lạc.
1. “Kính bạch Đức Thế Tôn!”
- Nghĩa hiển:
Đây là lời khởi đầu, xưng gọi đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cũng như tất cả
Như Lai. Người đọc khởi tâm cung kính, như đang trực tiếp đối diện với
Phật.
- Ý sâu:
Niệm “Kính bạch” là phá tâm ngã mạn. Mỗi lần niệm Phật hay tụng kinh, nếu
có tâm cung kính, thì công đức mới đầy đủ.
- Ứng dụng:
Khi đọc, hãy quán tưởng mình đang thật sự đứng trước Phật, tâm chí thành,
không hời hợt.
2. “Hôm nay con một lòng,”
- Nghĩa hiển:
“Một lòng” là tâm chuyên nhất, không tạp loạn.
- Thuật ngữ:
Trong Tịnh độ tông, “nhất tâm” chính là điều kiện then chốt để được vãng
sanh.
- Ý sâu:
Người cầu Cực Lạc phải tập buông bỏ muôn duyên, chỉ chuyên tâm
hướng Phật. Đó là ý “một lòng”.
- Ứng dụng:
Khi tụng kệ, niệm Phật, nên tập nhiếp tâm, không xen suy nghĩ khác.
3. “Kính lễ khắp mười phương”
- Nghĩa hiển:
Mười phương là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc,
Thượng, Hạ – biểu trưng cho khắp tất cả vũ trụ.
- Ý sâu:
Pháp giới vốn vô tận, Phật ở mười phương vô lượng, nên lễ một Phật chính
là lễ tất cả chư Phật. Đây là tâm bình đẳng.
- Ứng dụng:
Khi lễ Phật, ta không thấy Phật A-di-đà riêng lẻ, mà chính là một với tất
cả chư Phật trong mười phương.
4. “Vô Ngại Quang Như Lai”
- Giải thích danh hiệu:
- “Vô Ngại”: không gì ngăn ngại.
- “Quang”: ánh sáng.
- “Như Lai”: danh hiệu chung của chư Phật.
- → “Vô Ngại Quang Như Lai” nghĩa là Đức A-di-đà có ánh
sáng trí tuệ, từ bi chiếu khắp, không gì che lấp.
- Ý sâu:
Ánh sáng này không chỉ chiếu bên ngoài, mà còn chiếu tận tâm mê lầm
của chúng sinh, phá tan vô minh.
- Ứng dụng:
Khi niệm “A-di-đà Phật”, hãy quán tưởng ánh sáng Phật chiếu đến tâm mình,
soi sáng mọi bóng tối khổ đau.
5. “Nguyện sanh nước Cực Lạc.”
- Nghĩa hiển:
Đây là lời phát nguyện rõ ràng: mong được sanh về Tịnh độ.
- Ý sâu:
Đây là tín – nguyện – hạnh trong pháp môn Tịnh độ. Trong đó,
“nguyện” chính là chìa khóa: nếu không phát nguyện, thì dù niệm Phật nhiều
cũng khó được vãng sanh.
- Ứng dụng: Khi đọc câu này, mỗi người nên tự khởi tâm tha thiết: “Con không muốn luân hồi nữa, chỉ nguyện được về Cực Lạc.”
Tóm ý (1-5):
Bốn câu này dạy ta 3 điều căn bản:
1.
Tâm cung
kính (Kính bạch Thế Tôn).
2.
Tâm chuyên
nhất (một lòng).
3.
Phát
nguyện tha thiết (nguyện sanh Cực Lạc).
Đây là khởi đầu con đường Tịnh độ,
mở ra nền tảng cho cả bài kệ.
6. “Con theo nghĩa chân thật, Của kinh Vô Lượng Thọ”
- Nghĩa hiển:
Người phát nguyện không phải dựa vào ý riêng, mà dựa trên nghĩa chân
thật của Kinh Vô Lượng Thọ – bộ kinh căn bản nói rõ nguyện lực của Đức
Phật A-di-đà.
- Ý sâu:
“Nghĩa chân thật” = Thật tướng, chân lý tuyệt đối mà kinh Vô Lượng
Thọ trình bày. Đây cũng chính là tâm bản nguyện của A-di-đà, không
hư dối.
- Ứng dụng:
Khi tụng, ta tin chắc lời Phật là thật ngữ, không hư vọng, nên nguyện của
ta cũng có sức chân thật, dễ cảm ứng đạo giao.
7. “Thuyết Kệ nguyện, tổng gom, Tương ưng lời Phật dạy.”
- Nghĩa hiển:
Bồ-tát Thế Thân soạn bài kệ này để tóm gọn yếu chỉ của kinh, làm
cho người đọc dễ nhớ, dễ thực hành, không rời lời dạy của Phật.
- Ý sâu:
“Tương ưng lời Phật dạy” nghĩa là tâm – nguyện – hạnh của hành giả không
trái nghịch Chánh pháp. Tu Tịnh độ là đi đúng con đường Phật đã mở.
- Ứng dụng:
Khi đọc kệ, ta biết đây không phải lời tự ý thêm vào, mà chính là “tóm
lược tinh hoa của kinh” → sinh tâm vững tin.
8. “Quán tướng thế giới kia, Đẹp hơn cả ba cõi.”
- Nghĩa hiển:
Thế giới Cực Lạc thù thắng, vượt hơn tất cả cõi trong Dục giới, Sắc giới,
Vô sắc giới.
- Thuật ngữ:
“Ba cõi” = Tam giới (Dục, Sắc, Vô sắc), nơi chúng sinh còn luân hồi.
- Ý sâu:
Cực Lạc vượt hơn tam giới vì không có sanh tử luân hồi, không còn khổ
não, chỉ thuần niềm vui giác ngộ.
- Ứng dụng:
Tụng câu này, ta quán chiếu: Ta-bà dù có giàu sang hay cảnh giới trời cao,
vẫn không bằng Cực Lạc. Từ đó nuôi dưỡng tâm xả bỏ Ta-bà, hướng về Cực
Lạc.
9. “Rỗng lặng như hư không, Rộng lớn không bờ mé.”
- Nghĩa hiển:
Thế giới Cực Lạc có tính chất tịch tĩnh (rỗng lặng), lại bao la
vô biên (rộng lớn không bờ mé).
- Ý sâu:
Đây là tánh Không và Vô ngại pháp giới: cảnh Cực Lạc chính là biểu hiện
của Chân như. Nơi ấy không bị hạn cuộc bởi thời gian, không gian.
- Ứng dụng:
Khi đọc, hãy tưởng rằng tâm ta cũng có thể mở ra rộng lớn, không bị trói
buộc vào phiền não nhỏ nhặt. Đây chính là quán tâm thanh tịnh.
- Điểm tựa: Kệ này dựa trên nghĩa chân thật của Kinh Vô
Lượng Thọ, không thêm bớt.
- Nội dung: Cực Lạc vượt trội Tam giới, vừa thanh tịnh
tịch lặng, vừa vô biên vô ngại.
- Thực hành: Khởi lòng tin chắc, phát tâm xả bỏ Ta-bà, mở
tâm rộng lớn.
10. “Chánh đạo đại từ bi, Sanh căn lành xuất thế”
- Nghĩa hiển:
Cõi Cực Lạc là nơi nương tựa của chánh đạo, được kiến lập bởi đại
từ bi của Phật A-di-đà. Chúng sanh về đó sẽ nảy sinh ra những căn
lành xuất thế (công đức giải thoát, không còn lành nhỏ trong thế
gian).
- Ý sâu:
“Chánh đạo” chính là con đường Giác ngộ; “đại từ bi” chính là bản
nguyện cứu độ của A-di-đà. Người về Cực Lạc sẽ tự nhiên phát triển căn
lành xuất thế gian (Bồ-đề tâm), vì ở đó chỉ có pháp tu hướng giải
thoát, không còn nghiệp ô nhiễm.
- Ứng dụng:
Khi đọc, ta hiểu rằng muốn gieo căn lành lớn, hãy nương nhờ đại từ bi của
Phật A-di-đà, phát tâm cầu sanh.
11. “Ánh sáng sạch tròn đầy, Như mặt trời, gương sáng”
- Nghĩa hiển:
Ánh sáng của Phật A-di-đà thanh tịnh, viên mãn, chiếu soi như mặt trời rực
rỡ, như gương sáng không tì vết.
- Ý sâu:
Ánh sáng Phật chính là trí tuệ vô ngại. “Tròn đầy” nghĩa là không
khiếm khuyết, không chỗ thiếu sót.
- Ứng dụng:
Khi niệm Phật, quán tưởng ánh sáng ấy chiếu khắp thân tâm, tẩy rửa vô
minh, để tâm mình sáng như gương, không bị bụi phiền não che lấp.
12. “Gồm đủ đặc tánh quí, Và mọi vật trang nghiêm.”
- Nghĩa hiển:
Cực Lạc có đủ mọi công đức quý báu, từ ánh sáng, đất đai, hoa sen, cung
điện, cho đến cảnh giới an vui.
- Ý sâu:
Đây là báo độ trang nghiêm do nguyện lực của Phật thành tựu, phản
ánh công đức vô lượng.
- Ứng dụng:
Người cầu sanh Cực Lạc phải nhớ rằng đó không phải cảnh giới “huyễn
tưởng”, mà là do công đức Phật hiện thành, nên đáng tin, đáng nguyện.
13. “Ánh sáng sạch rực rỡ, Soi chiếu khắp thế gian”
- Nghĩa hiển:
Ánh sáng Phật A-di-đà không chỉ ở Cực Lạc, mà lan khắp mười phương, chiếu
đến tất cả thế gian.
- Ý sâu:
Đây là biểu tượng từ bi phổ độ: không phân biệt gần xa, sang hèn,
ai có duyên đều được nhiếp thọ.
- Ứng dụng:
Khi đọc, ta khởi tâm tin rằng chính mình cũng đang được ánh sáng ấy chiếu
soi, không ai bị bỏ rơi.
14. “Cỏ công đức bảo tánh, Mềm mại xoay về phải”
- Nghĩa hiển:
Trên đất Cực Lạc có những thảm cỏ bằng chất báu, mềm mại, và khi gió thổi,
lá cỏ tự nhiên xoay về phía bên phải.
- Ý sâu:
“Xoay về phải” tượng trưng cho thuận pháp, thuận chánh đạo, khác
với phàm phu thường “nghịch đạo”. Mọi cảnh vật ở Cực Lạc đều biểu hiện công
đức pháp tính.
- Ứng dụng:
Khi đọc, ta hiểu rằng ở Cực Lạc, đến cỏ cây cũng biểu pháp, nhắc ta luôn
sống đúng chánh đạo.
15. “Người chạm tâm an vui, Hơn cả Chơn-lân-đà.”
- Nghĩa hiển:
Ai chạm đến cỏ báu thì tâm liền vui vẻ, an lạc, hơn cả sự êm ái của loại
chiếu Chơn-lân-đà (một loại cỏ mềm nhất ở Ấn Độ xưa).
- Ý sâu:
Biểu trưng rằng công đức Cực Lạc vượt xa mọi sự hưởng thụ thế gian.
Niềm vui ở đó là niềm vui thanh tịnh, chạm vào liền sinh an lạc, không xen
khổ đau.
- Ứng dụng:
Người tụng câu này nên quán chiếu: hạnh phúc thế gian (tiền tài, sắc đẹp,
danh lợi…) dù êm ái đến đâu cũng không sánh bằng an lạc Cực Lạc → khởi tâm
nhàm chán Ta-bà, tăng nguyện lực vãng sanh.
·
Cực Lạc là kết quả của đại từ bi
Phật A-di-đà.
·
Ánh sáng trí tuệ Phật viên mãn,
phổ chiếu, soi khắp tất cả.
· Mọi cảnh vật nơi ấy đều biểu hiện công
đức pháp tính, đem đến an vui vượt cả thế gian.
·
Người tu nên thấy rõ an lạc Cực
Lạc cao quý hơn mọi thú vui Ta-bà, để tăng trưởng tâm cầu sanh.
16. “Ngàn vạn hoa quí báu, Phủ kín mặt ao hồ”
- Nghĩa hiển:
Ao hồ ở Cực Lạc không phải nước bình thường, mà được phủ đầy hoa báu, lung
linh rực rỡ.
- Ý sâu:
Hoa sen tượng trưng Bồ-đề tâm, là nơi hóa sinh của chư Bồ-tát. Ao
hồ đầy hoa quý báu nghĩa là chúng sanh về Cực Lạc đều nương vào Bồ-đề
tâm và công đức để sinh.
- Ứng dụng:
Khi tụng câu này, quán tưởng tâm mình cũng đang nở ra đóa sen công đức,
chuẩn bị làm chỗ hóa sinh trong ao thất bảo.
17. “Gió nhẹ lay cánh hoa, Vô lượng tia sáng chuyển.”
- Nghĩa hiển:
Khi gió thổi, cánh hoa lay động phát ra ánh sáng rực rỡ, chiếu soi vô
lượng phương.
- Ý sâu:
Mọi hiện tượng nơi Cực Lạc đều là biểu pháp: hoa lay động cũng
thành ánh sáng, tức là mọi duyên đều giúp chúng sanh giác ngộ.
- Ứng dụng:
Nhắc ta ở Ta-bà, tâm thường bị gió đời lay động (khen – chê, được – mất…),
nhưng nơi Cực Lạc, mỗi “cái lay” đều biến thành ánh sáng trí tuệ.
18. “Từ cung điện lầu gác, Nhìn thông thấu mười phương.”
- Nghĩa hiển:
Người ở Cực Lạc từ cung điện của mình có thể thấy khắp mười phương thế
giới.
- Ý sâu:
Đây là biểu hiện của trí tuệ vô ngại. Ở Ta-bà, nhãn quan chúng ta
bị hạn chế bởi vô minh. Ở Cực Lạc, nhãn quan khai mở, thấy suốt mười
phương, tượng trưng cho trí huệ Bát-nhã.
- Ứng dụng:
Khi tụng, hãy quán: niệm Phật không chỉ để được an vui, mà để mở ra trí
huệ sáng suốt, thấy rõ thật tướng các pháp.
19. “Cây cối nhiều màu sắc, Hàng rào quí vây quanh.”
- Nghĩa hiển:
Cây báu trong Cực Lạc hiện ra đủ sắc màu, lại có hàng rào bằng ngọc báu
vây quanh.
- Ý sâu:
Đây là hình ảnh của giới luật và oai nghi. Hàng rào tượng trưng cho
giới ngăn ngừa lỗi lầm, giữ cho tâm an ổn. Màu sắc cây cối tượng
trưng cho sự phong phú của công đức.
- Ứng dụng:
Hiểu rằng: muốn về Cực Lạc, trước hết nơi Ta-bà cũng cần trồng “cây công
đức” và dựng “hàng rào giới luật” cho chính mình.
20. “Vô lượng báu đan xen, Hư không lưới giăng phủ.”
- Nghĩa hiển:
Trên không trung của Cực Lạc có vô số báu vật kết thành lưới giăng, trang
nghiêm vô tận.
- Ý sâu:
“Lưới báu” biểu thị cho pháp giới duyên khởi: mỗi viên ngọc phản
chiếu tất cả, giống như lưới Đế-châu trong kinh Hoa Nghiêm. Đây là cảnh
giới vô ngại pháp giới.
- Ứng dụng:
Khi đọc, quán rằng: mỗi người, mỗi sự việc trong đời đều là một “hạt ngọc
trong lưới duyên khởi”, có liên hệ mật thiết với nhau → khởi tâm tôn
trọng, thương yêu.
21. “Các linh báu hòa reo, Diễn nói pháp âm mầu.”
- Nghĩa hiển:
Những báu vật nơi ấy không chỉ tỏa sáng, mà còn phát ra âm thanh vi diệu
thuyết pháp.
- Ý sâu:
Đây là Pháp thân thuyết pháp – ngay cả cảnh giới vô tình cũng có
thể tuyên dương Chánh pháp. Người về Cực Lạc, không phút giây nào lìa giáo
pháp.
- Ứng dụng:
Ta quán chiếu rằng: nếu giữ tâm chánh niệm nơi Ta-bà, thì từng âm thanh
(gió thổi, tiếng chim, tiếng người) cũng có thể trở thành “pháp âm” giúp
ta giác ngộ.
· Ao hồ, hoa sen, cung điện, cây báu,
lưới báu, âm thanh – tất cả đều trang nghiêm, thanh tịnh và biểu pháp.
· Mỗi chi tiết nhắc nhở ta rằng Cực
Lạc là cảnh giới trí tuệ – từ bi – giới luật – duyên khởi – pháp âm.
· Thực hành: Ngay trong Ta-bà, hãy tập
thấy cảnh vật như pháp, để chuẩn bị tâm tương ưng với cảnh giới Cực Lạc.
22. “Mưa hoa và y phục, Hương thơm xông cùng khắp.”
- Nghĩa hiển:
Trên cõi Cực Lạc thường có những trận mưa hoa trời, mưa y phục, hương thơm
lan tỏa khắp nơi.
- Ý sâu:
Đây là hình ảnh biểu trưng cho phước đức đầy đủ: hoa = công đức nở
rộ, y phục = phước báo đầy đủ, hương = giới đức lan tỏa.
- Ứng dụng:
Người niệm Phật nếu giữ tâm thanh tịnh, thì mỗi hành động thiện của mình
cũng giống như gieo hương hoa lên đời.
23. “Huệ Phật như mặt trời, Phá tăm tối thế gian.”
- Nghĩa hiển:
Trí huệ của Phật A-di-đà ví như mặt trời lớn, phá tan vô minh u tối.
- Ý sâu:
Ở Ta-bà, chúng ta bị che lấp bởi vô minh. Ở Cực Lạc, ánh sáng Phật trí phá
tan màn vô minh, khiến người nào sinh về đó đều giác ngộ.
- Ứng dụng:
Khi tụng câu này, hãy quán mình đang được ánh sáng A-di-đà soi chiếu, tâm
trí dần sáng lên, hết sợ hãi và mê lầm.
24. “Phạm âm mầu vang khắp, Mười phương thảy đều nghe.”
- Nghĩa hiển:
Âm thanh của Phật (Phạm âm) vang xa, mười phương thế giới đều nghe được.
- Ý sâu:
Pháp âm của A-di-đà không giới hạn không gian – đó là Pháp thân thuyết
pháp. Hễ tâm tương ưng thì dù ở đâu cũng cảm được.
- Ứng dụng:
Ở Ta-bà, nếu chuyên tâm niệm Phật, ta cũng có thể nghe “pháp âm” trong
từng hơi thở, từng niệm, giúp tâm an lạc.
25. “A-di-đà Chánh Giác, Pháp vương khéo giữ gìn.”
- Nghĩa hiển:
Đức Phật A-di-đà là Đấng Chánh Giác, vị vua của Pháp, khéo léo giữ gìn
Chánh pháp.
- Ý sâu:
“Pháp vương” nghĩa là bậc dùng trí tuệ và từ bi để dẫn dắt tất cả chúng
sinh, giữ cho Pháp không mất.
- Ứng dụng:
Khi nhớ đến Phật A-di-đà, ta thấy nơi Ngài là điểm tựa vững chắc, giữ gìn
mình khỏi rơi vào tà kiến.
26. “Bảy tịnh hoa Như Lai, Từ hoa Chánh giác sanh.”
- Nghĩa hiển:
Các hoa sen thanh tịnh ở Cực Lạc chính là chỗ hóa sinh của chư Bồ-tát, đều
từ trí tuệ Chánh giác mà thành.
- Ý sâu:
“Hoa Chánh giác” biểu thị giác ngộ chân thật. Người sinh về Cực Lạc
đều nương bản nguyện A-di-đà, hóa sinh trong hoa sen, đồng nghĩa với việc
đặt nền tảng trong Chánh giác.
- Ứng dụng:
Tụng câu này để khởi tâm: ta cũng mong được hóa sinh trong hoa sen, sống
giữa ánh sáng giác ngộ.
27. “Ưa thích vị Phật pháp, Tam-muội là thức ăn.”
- Nghĩa hiển:
Chúng sanh Cực Lạc không cần ăn uống vật chất, mà lấy Pháp vị làm
niềm vui, lấy định (tam-muội) làm sự nuôi dưỡng.
- Ý sâu:
Ở Ta-bà, chúng ta ăn để sống; ở Cực Lạc, sống để tu. Năng lượng
sống của chúng sanh Cực Lạc chính là định – huệ.
- Ứng dụng:
Trong hiện tại, nếu ta biết “nếm” được vị Pháp, thấy niềm vui trong học và
hành, thì đã nếm được phần nào hương vị Cực Lạc.
28. “Xa lìa khổ thân tâm, Mãi mãi được an vui.”
- Nghĩa hiển:
Chúng sanh về Cực Lạc không còn khổ đau về thân (bệnh tật, đói rét, già
chết) và tâm (phiền não, sợ hãi).
- Ý sâu:
Đây là Niết-bàn lạc, biểu hiện sự giải thoát rốt ráo: không còn nhân
khổ, nên quả khổ cũng dứt.
- Ứng dụng:
Khi quán câu này, ta thấy động lực niệm Phật lớn lao hơn, vì đây là con
đường chấm dứt khổ đau tận gốc.
29. “Toàn căn lành Đại thừa, Không các loại cơ hiềm.”
- Nghĩa hiển:
Ở Cực Lạc, mọi chúng sanh đều có căn lành Đại thừa, không còn tánh
ganh tỵ, hiềm khích.
- Ý sâu:
Điều này khác hẳn Ta-bà, nơi người tu dễ bị tâm tật đố, phân chia, tranh
chấp. Ở Cực Lạc, mọi căn cơ đều hướng về Đại thừa, sống trong hòa thuận.
- Ứng dụng:
Ngay bây giờ, nếu ta tu học mà giữ tâm không ganh ghét, không phân biệt,
thì đã gieo “căn lành Đại thừa” cho chính mình.
30. “Hàng nữ nhân, căn khuyết, Nhị thừa không sanh về.”
- Nghĩa hiển:
Ở Cực Lạc không có nữ nhân, người căn khuyết, hay người còn dừng ở quả vị
Nhị thừa.
- Giải thích:
Đây không phải sự phân biệt, mà là cách nói biểu trưng:
- “Nữ nhân”
= tượng trưng cho tâm yếu mềm, dễ dao động.
- “Căn khuyết”
= tượng trưng cho chướng ngại tu hành.
- “Nhị thừa”
= chỉ những người tu riêng cầu giải thoát, chưa phát tâm Đại thừa.
- Ý sâu:
Nói cách khác, vào Cực Lạc thì tâm ai cũng đầy đủ công đức, không
thiếu, không nghiêng lệch, đều hướng Đại thừa.
- Ứng dụng:
Tụng đến đây ta không hiểu lầm thành phân biệt, mà thấy được Cực Lạc là
cảnh giới đồng nhất Đại thừa, nơi tâm hạnh viên mãn.
31. “Ước nguyện của chúng sanh, Thảy đều được đầy đủ.”
- Nghĩa hiển:
Ai sinh về Cực Lạc, mọi nguyện lành đều được toại nguyện.
- Ý sâu:
Đây là nhờ sức bản nguyện của A-di-đà gia trì, nên chúng sanh vừa
nghĩ liền thành tựu, không bị chướng ngại.
- Ứng dụng:
Khi đọc, ta càng thấy niềm tin vững chắc: phát nguyện vãng sanh chính là
để cho tất cả ước nguyện giác ngộ đều viên mãn.
32. “Cho nên con nguyện sanh, Về cõi A-di-đà.”
- Kết đoạn:
Tất cả lý do trên (cảnh giới trang nghiêm, trí huệ phá vô minh, pháp âm
vang khắp, an vui, không ganh hiềm, nguyện nào cũng viên mãn) chính là
động lực để hành giả quyết tâm nguyện vãng sanh.
- Ứng dụng:
Đây là chỗ ta phát tâm tha thiết, dứt khoát chọn con đường Tịnh độ.
- Mô tả thêm những cảnh trang nghiêm và sự an vui nơi Cực
Lạc: hoa – y phục – hương thơm, ánh sáng trí huệ, pháp âm, pháp vị nuôi
thân.
- Khẳng định: nơi ấy không còn khổ thân tâm, không có
ganh ghét, mọi nguyện đều viên mãn.
- Kết thúc bằng lời phát nguyện tha thiết: “Cho nên
con nguyện sanh về cõi A-di-đà.”
33. “Vô lượng Bảo vương hoa, Làm đài tòa tịnh diệu.”
- Nghĩa hiển:
Hoa báu vô lượng, kết thành bảo đài trang nghiêm, nơi chư Phật thuyết
pháp, chư Bồ-tát an tọa.
- Ý sâu:
“Hoa” ở đây tượng trưng cho công đức viên mãn; “đài tòa” tượng
trưng cho nền tảng giác ngộ.
- Ứng dụng:
Khi quán, ta thấy cảnh Cực Lạc không chỉ đẹp mà còn là biểu hiện của công
đức và trí tuệ. Tu ở Ta-bà, mỗi công hạnh lành ta làm cũng chính là “hoa
báu” đang dệt nên đài tòa vãng sanh.
34. “Ánh sáng tỏa một tầm, Tôn dung vượt quần sanh.”
- Nghĩa hiển:
Đức Phật A-di-đà phóng quang, tôn dung (dung mạo) hơn hẳn tất cả chúng
sinh.
- Ý sâu:
Ánh sáng Phật không chỉ chiếu ngoài, mà còn phá tan vô minh trong tâm
chúng sinh.
- Ứng dụng:
Khi đọc câu này, ta nên tưởng niệm rằng ánh sáng từ bi – trí huệ của Phật
đang chiếu soi thân tâm mình, giúp mình vượt khỏi khổ não.
35. “Âm thanh mầu của Phật, Mười phương đều nghe biết.”
- Nghĩa hiển:
Pháp âm của Phật A-di-đà vang xa, mười phương đều có thể cảm nhận.
- Ý sâu:
Đây là Pháp thân thuyết pháp, không bị hạn chế bởi ngôn ngữ hay
không gian. Ai có tâm thanh tịnh đều cảm được.
- Ứng dụng:
Khi ta niệm Phật, cũng chính là đồng thanh với âm mầu ấy, khiến tâm mình
hòa cùng Phật pháp.
36. “Đồng đất nước lửa gió, Hư không, vô phân biệt.”
- Nghĩa hiển:
Pháp thân Phật, âm thanh Phật, ánh sáng Phật thấm nhập khắp cả đất, nước,
gió, lửa, và hư không. Không có phân biệt, không chỗ nào không có.
- Ý sâu:
Đây chính là tánh bình đẳng của Pháp thân: Phật không ở xa, mà ngay
trong vạn pháp.
- Ứng dụng:
Khi tu, đừng nghĩ Phật A-di-đà chỉ ở phương Tây xa xôi; thật ra Pháp thân
A-di-đà đang hiện hữu trong chính thế giới và trong tâm mình.
37. “Chúng trời người bất động, Từ biển trí tịnh sanh.”
- Nghĩa hiển:
Các hàng trời, người ở Cực Lạc đều an ổn, bất động trước phiền não; vì họ
sinh từ “biển trí tịnh” của Phật A-di-đà.
- Ý sâu:
“Bất động” nghĩa là không thoái chuyển; “biển trí tịnh” chính là bản
nguyện trí của A-di-đà.
- Ứng dụng:
Niệm Phật là quay về nương biển trí ấy, để tâm mình dần trở nên bất động
trước cơn sóng phiền não.
38. “Như Tu-di Sơn vương, Không núi nào hơn được.”
- Nghĩa hiển:
Đức A-di-đà như núi Tu-di cao vời, vượt trên tất cả.
- Ý sâu:
Tu-di tượng trưng cho trung tâm vũ trụ và sự bất động. Phật A-di-đà
là “núi Tu-di” của tâm thức, không gì hơn, không gì lay động.
- Ứng dụng:
Khi quán, ta thấy được sự vững chắc của Phật, để tâm mình cũng nương theo
đó mà vững chãi.
39. “Các chúng trời và người, Đều cung kính chiêm ngưỡng.”
- Nghĩa hiển:
Tất cả trời và người đều chiêm ngưỡng, cung kính A-di-đà.
- Ý sâu:
Đây cho thấy cảnh giới Cực Lạc là đạo tràng tôn kính Phật, mọi
người đồng tâm hướng về Chánh giác, không có loạn động.
- Ứng dụng:
Ở Ta-bà, nếu trong đạo tràng ai cũng đồng tâm cung kính Phật, thì đó chính
là tạo nên “Cực Lạc tại nhân gian.”
40. “Sức bản nguyện của Phật, Ai biết đều lợi ích.”
- Nghĩa hiển:
Nhờ sức bản nguyện A-di-đà, bất cứ ai hiểu và tin nhận đều được lợi ích.
- Ý sâu:
Đây là cốt lõi Tịnh độ: không chỉ nhờ sức mình, mà chính nhờ bản nguyện
lực của A-di-đà nâng đỡ, nên việc vãng sanh không khó như ta tưởng.
- Ứng dụng:
Đọc đến đây, người niệm Phật càng thêm vững lòng tin, không ngờ vực khả
năng vãng sanh của chính mình.
41. “Khiến mau chóng thành tựu, Biển công đức báu lớn.”
- Nghĩa hiển:
Sức nguyện của Phật khiến hành giả nhanh chóng thành tựu công đức, như
được thả vào biển báu vô tận.
- Ý sâu:
Không có công đức nào vượt hơn công đức nhất tâm niệm Phật, vì nó
nương bản nguyện lực, đưa đến sự viên mãn chóng vánh.
- Ứng dụng: Niệm Phật không phải chỉ là tu riêng một pháp, mà là tổng nhiếp công đức – như vào biển cả, tất cả sông đều dung nạp.
- Cảnh giới Cực Lạc được ví như hoa báu, đài tòa, ánh
sáng trí huệ, âm thanh pháp âm, trùm khắp mười phương.
- Chúng sanh nơi đó bất động, như núi Tu-di, đồng tâm tôn
kính Phật.
- Tất cả nhờ sức bản nguyện A-di-đà mà mau thành tựu biển
công đức vô tận.
42. “Nước an lạc thanh tịnh, Chuyển bánh xe vô cấu.”
- Nghĩa hiển:
Cõi Cực Lạc là thế giới an vui, thanh tịnh, không cấu nhiễm, nơi Phật
thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh.
- Ý sâu:
“Bánh xe vô cấu” tượng trưng cho Chánh pháp luôn vận hành, không
gián đoạn, không ô nhiễm bởi tà kiến hay phiền não.
- Ứng dụng:
Học theo, ta cũng nên giữ tâm thanh tịnh, quay bánh xe chánh pháp ngay
trong đời sống hằng ngày: lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp pháp thiện.
43. “Hóa Phật và Bồ-tát, Như mặt trời trên không.”
- Nghĩa hiển:
Ở Cực Lạc, có vô số Hóa Phật và Hóa Bồ-tát, như mặt trời sáng rực giữa hư
không.
- Ý sâu:
Đây chỉ cho oai lực bản nguyện: một Phật A-di-đà có thể hóa hiện vô
lượng Phật, Bồ-tát để giáo hóa chúng sinh.
- Ứng dụng:
Đừng nghĩ niệm Phật chỉ là hướng về một vị Phật; thật ra là nương cả lưới
Phật – Bồ-tát vô lượng đang hộ trì.
44. “Như Tu-di bất động. Ánh sáng sạch trang nghiêm.”
- Nghĩa hiển:
Hóa Phật, Bồ-tát vững chắc bất động như núi Tu-di, ánh sáng chiếu sáng
trang nghiêm.
- Ý sâu:
Tu-di ở đây tượng trưng cho Định và Huệ: bất động trong định, nhưng
ánh sáng trí huệ chiếu khắp.
- Ứng dụng:
Khi tu, ta học cách an trú tâm (bất động) và phát sáng trí (quang minh).
Niệm Phật chính là con đường dung hợp định – huệ.
45. “Chỉ một niệm, cùng lúc, Chiếu khắp các Phật hội. Lợi
ích cả chúng sanh.”
- Nghĩa hiển:
Chỉ một niệm ánh sáng A-di-đà đã chiếu khắp mười phương, lợi ích vô lượng
chúng sinh.
- Ý sâu:
Một niệm chân thành niệm Phật của ta cũng thông ứng với bản nguyện lực
– và lập tức có công đức vô lượng, vượt ngoài tưởng tượng.
- Ứng dụng:
Đừng xem nhẹ một niệm Phật; chỉ một niệm chí thành đã đủ để cảm ứng, được
Phật quang nhiếp thọ.
46. “Trời tuôn hương, hoa, nhạc, Cùng y phục cúng dường.
Khen ngợi công đức Phật, Không khởi tâm phân biệt.”
- Nghĩa hiển:
Thiên nhân cúng dường bằng hương, hoa, y phục, nhạc trời, ca ngợi công đức
Phật, mà tâm hoàn toàn thanh tịnh, không phân biệt.
- Ý sâu:
Đây là cảnh giới Pháp giới bình đẳng: công đức Phật được tán dương
không vì ngã chấp, không có so đo hơn thua.
- Ứng dụng:
Khi mình tán thán công đức Phật, hay khen ngợi người khác, cũng nên tập
buông phân biệt – thì lời khen mới thanh tịnh, không xen chấp ngã.
47. “Nơi nào không công đức, Phật pháp và Tăng bảo.”
- Nghĩa hiển:
Ở Cực Lạc, khắp nơi đều đầy đủ công đức Phật – Pháp – Tăng, không có chỗ
nào thiếu vắng Tam bảo.
- Ý sâu:
Đây là Tam bảo thường trụ, bất khả hoại, hiện diện khắp pháp giới.
- Ứng dụng:
Khi sống ở Ta-bà, nhiều nơi thiếu bóng Tam bảo; nhưng nếu tâm ta quy kính
Tam bảo, thì ngay trong đời thường cũng thấy Tam bảo hiện diện.
48. “Con nguyện vãng sanh đến, Giáo hóa giống như Phật.”
- Nghĩa hiển:
Người phát nguyện không chỉ cầu vãng sanh để hưởng an vui, mà còn nguyện
được giáo hóa chúng sinh như Phật.
- Ý sâu:
Đây chính là Bồ-tát tâm trong Tịnh độ: vãng sanh để thành tựu đạo,
rồi trở lại độ sinh.
- Ứng dụng:
Khi phát nguyện, nên thêm tâm Bồ-tát: không chỉ cho riêng mình, mà còn để
cứu giúp tất cả.
49. “Con tạo Nguyện kệ này, Nguyện gặp A-di-đà. Nguyện cùng
các chúng sanh, Đồng sanh nước An Lạc.”
- Nghĩa hiển:
Bồ-tát Thế Thân soạn kệ này, nguyện gặp Phật A-di-đà, nguyện cùng tất cả
chúng sinh đồng sanh Cực Lạc.
- Ý sâu:
Đây là hồi hướng phổ đồng: không giữ riêng mình, mà nguyện tất cả
cùng vãng sanh.
- Ứng dụng:
Khi tụng “Kệ nguyện sanh”, ta nên hồi hướng công đức niệm Phật không riêng
cho ta, mà cho tất cả cha mẹ, quyến thuộc, chúng sinh pháp giới – đều được
vãng sanh Cực Lạc.
- Cực Lạc là thế giới thanh tịnh, luôn có Phật, Bồ-tát
hóa hiện, ánh sáng trí huệ chiếu khắp, một niệm lợi ích vô lượng chúng sinh.
- Cảnh giới ấy đầy hương hoa, cúng dường, ca ngợi Phật mà
không phân biệt, Tam bảo thường trụ khắp nơi.
- Người phát nguyện không chỉ cầu tự độ mà còn cầu độ
tha, hồi hướng tất cả chúng sinh cùng vãng sanh.
X. CHÚC TÁN – LỄ PHẬT, BỒ-TÁT
1. Tán thán Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
Kệ:
Dung nhan Đức Phật
tốt lạ thường
Hào quang chiếu sáng
khắp mười phương
Từ bi oai đức không
cùng tận
Cứu độ chúng sanh
khắp sáu đường
· Ca ngợi công đức của Đức Bổn sư Thích-ca,
người trực tiếp mở ra con đường Tịnh độ cho chúng ta nơi Ta-bà.
·
“Dung nhan tốt lạ thường”: biểu tượng trí tuệ – từ bi.
· “Hào quang chiếu sáng khắp mười phương”: trí tuệ soi
chiếu muôn loài.
·
“Cứu độ sáu đường”: Phật không bỏ một chúng sanh nào.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ:
Ta-bà Giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật
👉 Ý nghĩa: Hành giả
biết ơn Phật Bổn Sư, nhờ Ngài mà có Phật pháp hôm nay.
2.
Tán thán Phật Dược Sư
Kệ:
Bảy Phật Dược Sư cõi
Đông lành
Mười hai nguyện lớn
cứu quần sanh
Giải kiết, tiêu tai,
tăng tuổi thọ
Phước duyên lợi lạc,
sống an lành
· Nói đến Đức Dược Sư Lưu Li Quang Vương Phật,
giáo chủ phương Đông và sáu vị Phật Dược Sư khác.
· Ngài phát 12 đại nguyện cứu khổ về bệnh
tật, tai nạn, nghiệp chướng, giúp chúng sanh được an ổn thân tâm.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ:
Đông phương Giáo chủ Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Lưu Li Quang Vương Phật
👉 Ý nghĩa: Hành giả
cầu phước báu sống an lành, thân tâm khỏe mạnh để tinh tấn tu hành.
3.
Tán thán Phật A-di-đà
Kệ:
Tây phương giáo chủ
A-di-đà
Bốn tám nguyện lớn
cứu Ta-bà
Chín phẩm đưa người
sang bờ giác
Thệ độ chúng sanh
vượt ái hà
· Ngài là chủ tôn của pháp môn Tịnh độ.
· “48 nguyện lớn” → cốt lõi là nguyện tiếp dẫn tất
cả chúng sanh.
· “Chín phẩm” → chỉ các bậc vãng sanh từ thấp đến cao, đều
có chỗ trong Cực Lạc.
·
“Vượt ái hà” → vượt dòng sông ái dục, khổ đau của Ta-bà.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ: Tây
phương Giáo chủ Đại Từ Đại Bi A-di-đà Phật
👉 Đây là trọng
tâm của nghi thức, nhấn mạnh lễ niệm A-di-đà Phật lâu dài để gieo sâu
nhân duyên vãng sanh.
4.
Tán thán Quán Thế Âm Bồ-tát
Kệ:
Y trắng đắp thân, đội
mũ hoa
Tầm thanh cứu khổ
hiện Ta-bà
Cành dương, bình nước
là diệu pháp
An nhiên trợ hóa, vẻ
từ hòa
·
Quán Thế Âm Bồ-tát biểu tượng cho từ
bi.
·
“Tầm thanh cứu khổ”: nghe tiếng kêu than mà ứng hiện cứu
độ.
· “Cành dương, bình nước” → biểu tượng cam lồ tịnh thủy,
rưới mát phiền não.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ: Đại
Từ Đại Bi Quán Thế Âm Bồ-tát
5.
Tán thán Đại Thế Chí Bồ-tát
Kệ:
Thân tướng đoan
nghiêm chẳng thể lường
Thiên y nhẹ mỏng phất
diệu hương
Pháp tòa vòi vọi
hương hoa khắp
Cất bước chân đi,
động mười phương
· Đại Thế Chí Bồ-tát biểu tượng cho trí
tuệ và năng lực nhiếp tâm.
· Kinh A-di-đà dạy: Ngài cùng Quán Âm làm trợ thủ cho Phật
A-di-đà, đồng cứu chúng sanh về Cực Lạc.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ: Đại
Hùng Đại Lực Đại Thế Chí Bồ-tát
6.
Tán thán Địa Tạng Vương Bồ-tát
Kệ:
Tay cầm châu sáng với
gậy vàng
Dộng tan cửa ngục cứu
quần sanh
Độ sanh khỏi nạn bao
số kiếp
Địa ngục chưa trống,
Phật chẳng thành.
·
Địa Tạng Bồ-tát tượng trưng cho đại
nguyện rộng lớn.
· “Địa ngục chưa trống, thề chẳng thành Phật” → biểu tượng
hạnh cứu độ vô biên, nhất là trong ác đạo.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ: Đại
Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ, Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ-tát
7.
Tán thán Đại Hải Chúng Bồ-tát
Kệ:
Vô biên tịnh chúng
khắp hư không
Rực sáng khôn cùng,
chẳng hành tung
Từ bi tiếp dẫn về cõi
Tịnh
Có duyên ngay đó được
tương phùng
· Đây là lời hướng về thanh tịnh đại hải chúng
Bồ-tát trong hội Liên Trì.
· Hình ảnh “đại hải chúng” → chỉ vô số Bồ-tát đồng tu đồng
chứng, từ bi tiếp dẫn.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ:
Phước Trí Nhị Nghiêm Thân Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát
8.
Tán thán Liên Trì Hải Hội
Kệ:
Hiền thánh được thỉnh
thảy quang lâm
Đại chúng càng sanh
khát ngưỡng tâm
Nương tựa sức từ cùng
khen ngợi
Đồng thanh xướng lễ,
thảy tu nhân
· Cuối cùng, lễ bái toàn thể Liên Trì Hải Hội Phật
và Bồ-tát.
· Đây là sự quy kính chung, nương về toàn thể Tăng-già
thanh tịnh của Cực Lạc.
Đảnh lễ:
Nhất tâm đảnh lễ:
Liên Trì Hải Hội Phật Bồ-tát
Tóm lại:
Phần chúc tán – lễ
Phật, Bồ-tát vừa niệm Phật, vừa lễ kính chư Thánh, gieo kết duyên rộng khắp.
Đây cũng là sự nhắc nhở: muốn vãng sanh Cực Lạc, ngoài A-di-đà còn cần sự trợ
lực của chư Phật, Bồ-tát.
XI. SÁM KHỂ THỦ
Đây là một trong những phần hay và đầy cảm xúc nhất của nghi thức Tịnh độ:
Sám khể thủ 🙏. Đây có thể xem như một bản tổng hợp: vừa là
sám hối, vừa là phát nguyện, vừa là hồi
hướng. Nội dung sâu sắc, bao quát cả con đường Tịnh độ từ phát tâm →
sám hối → cầu nguyện tiếp dẫn → chứng ngộ → trở lại Ta-bà hóa độ.
1. Mở
đầu sám khể thủ
“Cúi
đầu đảnh lễ Đại Đạo Sư, dẫn dắt chúng sanh về cõi Tịnh. Con nay phát nguyện,
nguyện vãng sanh, xin Đức Từ Bi thương tiếp nhận.”
· “Đại Đạo Sư” chính là Đức A-di-đà Như Lai,
bậc đại thầy chỉ đường cho chúng sanh về Tịnh độ.
· Câu mở đầu này đặt tâm cung kính, khiêm hạ
làm gốc, đồng thời tuyên thệ mục đích duy nhất: cầu vãng sanh.
· Đây là lời gởi gắm thân mệnh nơi đức
Phật, với sự nương tựa trọn vẹn.
2. Phát
tâm vì bốn ân, ba cõi, pháp giới
“Đệ
tử chúng con, vì cả bốn ân, khắp cùng ba cõi, hết thảy chúng sanh trong toàn
pháp giới, cầu đạo Bồ-đề, Nhất thừa vô thượng, chuyên tâm trì niệm A-di-đà Phật…”
· “Bốn ân”: cha mẹ, chúng sanh, quốc gia, Tam bảo → nhắc
nhở đạo hiếu, đạo trung, đạo ân nghĩa.
· “Cầu đạo Bồ-đề, Nhất thừa vô thượng”: cho thấy Tịnh độ
không chỉ cầu an lạc cá nhân, mà chính là nẻo Nhất thừa thành Phật.
· “Danh thâu muôn đức”: trong một câu A-di-đà Phật
đã đủ công đức vô lượng, bao trùm muôn hạnh.
3. Sám
hối nghiệp chướng
“Nhưng
vì chúng con phước mỏng nghiệp dày, chướng sâu huệ cạn, tâm nhiễm dễ tăng, đức
Tịnh khó thành…”
· Đây là phần tự quán chiếu thân phận chúng sanh
Ta-bà: nghiệp nặng, trí ít, dễ lui sụt.
· Câu này chính là chìa khóa: cậy vào tự lực thì
không thể thành, chỉ nhờ tha lực của Phật A-di-đà mới được cứu độ.
4. Sám
hối tội lỗi vô thỉ
“…chẳng
biết tâm này vốn thường thanh tịnh, vọng khởi tham dục, sân hận, si mê…”
·
Nguyên nhân gốc rễ: không nhận ra bản tâm thanh
tịnh.
·
Do vô minh mà ba độc khởi, ba nghiệp nhiễm, kết oán vô
số.
·
Đây là sự nhận tội một cách thẳng thắn, tận gốc.
5. Nguyện
lực Phật gia trì
“Đức
A-di-đà dùng sức từ bi và sức đại nguyện, chứng biết lòng con… phóng ánh sáng
lành chiếu đến thân con, duỗi cánh tay vàng xoa đầu chúng con…”
· Đây là mật nghĩa của tha lực: Phật luôn
hiện diện để gia trì, nhưng chỉ khi hành giả mở lòng sám hối thì sự cảm ứng mới
hiển lộ.
· Hình ảnh “cam lồ rưới, ánh sáng chiếu, tay vàng xoa đầu”
là biểu tượng thanh tịnh hóa tội chướng, gieo trồng căn lành.
6. Nguyện
lâm chung an lành
“…Đến
lúc lâm chung, tự biết giờ khắc, thân không bệnh khổ, tâm không tham luyến,
chánh niệm hiện tiền…”
· Đây chính là mục tiêu thực tiễn của người tu Tịnh độ:
o Biết trước giờ chết
o Không khổ đau, không
mê loạn
o Chánh niệm vững vàng,
không tán loạn
· Hình ảnh Phật và Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn là bằng
chứng của nguyện lực A-di-đà.
7. Nguyện
vãng sanh – thành tựu giác ngộ
“…ngồi
đài kim cang, sanh vào hoa sen nơi ao bảy báu, hoa nở thấy Phật… chứng Vô sanh
nhẫn…”
· Đây là cảnh giới hoa khai kiến Phật – ngộ Vô sanh,
nghĩa là vượt khỏi sanh tử.
· Thành tựu ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô
lượng đà-la-ni → trọn đủ quả vị Bồ-tát Đại thừa.
o Ba thân (Trikāya): 1/ Pháp thân (Dharmakāya): Thể
tánh chân như, thường trụ, vô tướng; 2/ Báo thân (Saṃbhogakāya): Thân
phước đức trí huệ, hiện nơi cõi Tịnh độ để thuyết pháp cho Bồ-tát; 3/ Ứng thân (Nirmāṇakāya): Thân
ứng hiện vào thế giới Ta-bà và các cõi để độ sanh (như Thích-ca Mâu-ni).
o Bốn trí (Caturjñāna): Được
chuyển hóa từ tám thức (A-lại-da, Mạt-na, Ý, sáu thức) khi tu chứng: 1/
Đại viên cảnh trí:
Trí tuệ như gương sáng, phản chiếu tất cả pháp; 2/
Bình đẳng tánh trí: Trí
tuệ thấy tất cả chúng sanh bình đẳng trong chân như; 3/ Diệu quan sát trí: Trí
phân biệt đúng đắn, không sai lầm, thấy rõ căn cơ và pháp tướng; 4/ Thành sở tác trí: Trí
tuệ ứng dụng khắp nơi, làm lợi ích chúng sanh.
o Năm nhãn (Pañcacakṣu): Năm
loại “mắt” để quán chiếu vạn pháp: 1/ Nhục nhãn: Mắt
phàm phu, thấy sắc tướng hữu hạn; 2/ Thiên nhãn: Mắt trời, thấy xa rộng, xuyên suốt; 3/ Huệ nhãn: Mắt
của hàng Thanh văn, Duyên giác, thấy lý duyên sinh, vô thường; 4/ Pháp nhãn: Mắt
Bồ-tát, thấy tất cả pháp đúng như thật; 5/ Phật nhãn: Mắt
Phật, viên mãn, thấy cùng khắp, không sót gì.
o Sáu thông
(Ṣaḍabhijñā): Năng lực tự tại của bậc Thánh: 1/ Thần túc thông: Tự
tại đi lại, biến hóa; 2/ Thiên nhãn thông:
Thấy các cõi, sinh tử; 3/ Thiên nhĩ thông: Nghe
khắp âm thanh vi tế; 4/ Tha tâm thông: Biết
rõ tâm niệm của chúng sanh; 5/ Túc mạng thông: Biết rõ đời trước của mình
và người; 6/ Lậu tận thông: Diệt
hết phiền não, không còn sinh tử.
o Vô lượng trăm ngàn
môn Đà-la-ni (Dhāraṇī): Đà-la-ni nghĩa là “năng trì, năng tổng” – tức là
pháp môn có khả năng giữ gìn, bao gồm, không để mất các thiện pháp. Có nhiều
loại đà-la-ni: trì danh, trì nghĩa, trì pháp, trì nhẫn… Nói “vô lượng trăm ngàn
môn” để chỉ sự viên mãn vô biên công đức, trí huệ, phương tiện.
8. Nguyện trở lại Ta-bà hóa độ
“…không
lìa Cực Lạc, hiện trụ Ta-bà, phân thân vô số, độ thoát chúng sanh…”
· Đây là hạnh nguyện trở lại Ta-bà sau khi
đã thành tựu ở Cực Lạc.
· Không chỉ lo cho riêng mình, mà nguyện cứu độ vô
tận hữu tình.
· Đây chính là tinh thần “vãng sanh bất thoái, hồi
nhập Ta-bà, độ tận chúng sanh” của Tịnh độ Đại thừa.
9. Nguyện
vô tận, hồi hướng công đức
“…thế
gian vô tận, thế giới vô tận, nghiệp và phiền não vô tận, nguyện lớn của con
cũng thật vô tận…”
· Đây là phần hồi hướng: đem tất cả công
đức sám hối, lễ bái, tu trì dâng lên khắp pháp giới.
· Đạo tâm này tương ưng với hạnh Phổ Hiền:
hồi hướng rộng khắp, không giới hạn.
Tóm lại:
· Bài Sám khể
thủ là sự hòa quyện: tán thán – sám hối – phát nguyện – cầu
vãng sanh – hồi hướng.
·
Đây cũng là một mô
hình thu nhỏ của toàn bộ pháp môn Tịnh độ: bắt đầu bằng tâm hổ thẹn và
sám hối, nương vào nguyện lực Phật, phát nguyện vãng sanh, chứng quả giác ngộ,
rồi hồi nhập Ta-bà cứu độ chúng sanh.
XII. HỒI HƯỚNG
1. Công đức không giữ riêng
“Tụng
kinh, lễ Phật, niệm hồng danh / Được bao công đức, hướng chúng sanh”
· Dù công đức do tụng kinh, lễ Phật, niệm danh hiệu
A-di-đà rất lớn, nhưng hành giả không giữ riêng cho mình.
· Đây chính là tinh thần hồi hướng: biến
công đức cá nhân thành công đức chung, để cùng khắp pháp giới
hữu tình đều được lợi lạc.
2. Cầu sanh Cực Lạc, cùng nhau viên thành
“Xin
cho tất cả cùng chung hưởng / Mai sau An Dưỡng nguyện viên thành”
· Chỗ hồi hướng không chỉ cầu an vui đời này, mà nhắm
thẳng về Cực Lạc.
· Không riêng bản thân, mà mong tất cả chúng sanh
cùng thành tựu → tinh thần “đồng sanh Cực Lạc quốc”.
3. Ba chướng tiêu trừ, tâm thanh tịnh
“Ba
chướng dứt trừ phiền não hết / Tuệ tâm sáng tỏ được tịnh thanh”
· Ba chướng:
o Phiền não chướng (tham, sân, si…)
o Nghiệp chướng (nghiệp ác quá khứ)
o Báo chướng (quả khổ do nghiệp
trổ)
· Khi niệm Phật hồi hướng, ba chướng tiêu dần, tâm được trí
tuệ sáng suốt, thanh tịnh. Đây chính là nền tảng để vãng sanh.
4. Nguyện hoa sen làm cha mẹ
“Nguyện
ý sanh về miền Cực Lạc / Đài vàng chín phẩm mẹ cha lành”
· Khi vãng sanh Cực
Lạc, hành giả không còn do cha mẹ huyết thống sanh ra, mà liên hoa hóa
sanh trong ao thất bảo.
· Vì thế nói “Đài
vàng chín phẩm mẹ cha lành”, nghĩa là hoa sen chính là nơi sinh thành,
dưỡng nuôi và chở che đạo nghiệp của người tu.
· Đây là hình ảnh
biểu trưng cho thân mới thanh tịnh: thoát khỏi ái dục, không
còn luân hồi, chỉ nương nơi hoa sen pháp giới mà thành tựu đạo Bồ-đề.
5. Hoa khai kiến Phật – chứng vô sanh
“Hoa
sen vừa nở thấy Như Lai / Chứng đắc Vô sanh thật chẳng sai”
· Đây là cảnh giới hoa khai kiến Phật: lúc
hoa sen nở, hành giả thấy Phật A-di-đà, nghe pháp, chứng nhập chân lý.
· “Vô sanh” nghĩa là chứng ngộ rằng các pháp vốn không
sinh không diệt → đạt trí tuệ giải thoát.
6. Bồ-tát bất thoái – bạn lành đồng hành
“Bồ-tát
bất thoái cùng tụ hội / Kết thành bạn tốt ngự liên đài”
· Vãng sanh Cực Lạc thì không còn thoái chuyển:
không thoái lui về phàm phu, không thoái lui về Thanh văn, không thoái lui về
phước báo trời người.
· Hành giả được kết bạn đồng tu với vô lượng Bồ-tát, gọi là
thiện hữu tri thức.
· Đây là cảnh giới an lành: luôn có bạn tốt trợ duyên, cùng
nhau tiến tu.
Tóm lại:
· Bài hồi hướng này tuy
vắn tắt, nhưng bao gồm: hồi hướng – tiêu chướng – nguyện vãng sanh –
báo hiếu – hoa khai kiến Phật – bất thoái thành Bồ-tát – đồng bạn thánh thiện.
· Đây chính là con
đường Tịnh độ toàn vẹn, khởi đầu từ công đức nhỏ, mà kết quả là đại
quả vô sanh, bất thoái.
XIII. PHỤC NGUYỆN
Bài Phục nguyện này có thể coi như lời “tổng kết – cầu
nguyện – hồi hướng” trang trọng và đầy đủ nhất trong toàn bộ nghi thức. Đây là
phần rất quan trọng, vừa hướng cho người còn sống, vừa hướng cho chư hương linh,
lại mở rộng đến pháp giới:
1. Xưng
danh Tam Bảo và chư Phật chứng minh
Nam-mô
Thập phương Thường trú Tam Bảo tác đại chứng minh…
· Mở đầu bằng cách thỉnh mười phương Tam Bảo và chư
Phật chứng minh: Phật Thích-ca Mâu-ni, Phật A-di-đà.
· Điều này nhấn mạnh rằng mọi lời nguyện, hồi hướng ở đây
đều không phải tự nói suông, mà có sự “thành tín” nương vào Tam Bảo, được các
bậc Thánh chứng minh.
2. Trình
bày công hạnh hôm nay và phát nguyện hồi hướng
Hôm
nay chúng con một dạ chí thành trì tụng kinh A-di-đà, lễ Phật, niệm hồng danh…
· Tường trình công đức tu tập trong buổi lễ: tụng kinh,
niệm Phật, lễ bái.
·
Hồi hướng công đức này để trang nghiêm cõi Tịnh
độ.
· Mục đích: trên đền bốn ân (cha mẹ, sư trưởng, Tam Bảo,
quốc gia chúng sinh), dưới cứu khổ ba đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).
· Rộng nữa: hồi hướng cho oan gia trái chủ nhiều
đời, mong họ cũng được giác ngộ, phát tâm Bồ-đề, cùng sanh về Cực Lạc.
3. Nguyện
cho chư hương linh – siêu thoát an lành
Ngưỡng
cầu từ phụ A-di-đà Phật thương xót chúng sanh… hết thảy oán thân trái chủ, cửu
huyền thất tổ, chiến sĩ trận vong, thập loại cô hồn…
· Đây là đoạn cầu siêu cho tất cả hương
linh, không phân biệt:
o Thân bằng quyến thuộc
(cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời).
o Người chết oan, chết
trận, tai nạn.
o Thập loại cô hồn, ngạ
quỷ khổ đau.
· Lời nguyện này mong họ được tiêu mê mờ, phá vô
minh, lìa sợ hãi, siêu sinh Tịnh độ.
· Đây chính là tâm đại từ bi, mở rộng đến vô danh –
vô vị (những chúng sinh không ai nhớ đến).
· Phần cầu siêu được đặt trước cầu an, hàm nghĩa “âm
siêu dương thới”. Khi những oan thân trái chủ, chúng sanh đã khuất được hóa
giải oán kết và siêu thoát, thì con cháu, người sống mới thật sự an ổn; gia
đình – xã hội mới được thịnh vượng. Đây là thứ tự hợp lý, vừa thể hiện từ bi
trọn vẹn, vừa đúng tinh thần nhân – quả hòa hợp.
4. Nguyện
cho thế giới hiện tại – an ổn hòa bình
Nguyện
cầu chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ cho mưa thuận gió hòa, quốc thới dân an, thế
giới hòa bình, chúng sanh an lạc…
·
Đây là phần cầu an chung cho đất nước,
thế giới, tất cả chúng sinh.
·
Không chỉ cầu siêu mà còn cầu cho người đang sống
được an ổn:
o Thân tâm an lạc.
o Tật bệnh tiêu trừ,
tai nạn dứt hết.
o Khai chánh kiến, tăng
trưởng trí tuệ, quy hướng Tam Bảo.
5. Nguyện
khi lâm chung được vãng sanh
Nguyện
cho chúng con phút lâm chung không chướng ngại, biết trước giờ khắc, thân không
bệnh khổ… tận mắt thấy từ phụ A-di-đà…
· Đây là nguyện quan trọng nhất của hành giả Tịnh độ:
o Khi lâm chung không
bệnh khổ, không điên đảo, giữ được chánh niệm.
o Có Thánh chúng trợ
niệm, thấy Phật A-di-đà, Quán Âm, Thế Chí phóng quang tiếp dẫn.
o Được vãng sanh ngay
trong một niệm.
6. Phổ
nguyện – tâm nguyện rộng lớn
Phổ
nguyện âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình với vô tình, đồng trọn
thành Phật đạo.
· Đây là lời kết: hồi hướng rốt ráo không
chỉ cho người và hương linh, mà cho cả pháp giới:
o Âm siêu (người mất
được siêu thoát).
o Dương thới (người
sống được hưng thịnh).
o Tình và vô tình (có
tri giác và vô tri) đều quy về Phật đạo.
· Đây chính là tâm nguyện bình đẳng – viên mãn
của Bồ-tát.
Ý nghĩa
tổng quát
· Bài Phục
nguyện như một bản “tuyên ngôn Tịnh độ”: vừa cầu an – cầu siêu
– cầu vãng sanh – cầu thế giới hòa bình.
· Điểm nổi bật: gắn kết
công đức cá nhân với gia đình – quốc gia – pháp giới
chúng sanh.
· Đây chính là tinh
thần tự lợi, lợi tha, tự giác, giác tha của đạo Phật.
XIV. TỰ QUY
1.
Con về nương tựa Phật
Con
về nương tựa Phật
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thể
nhận được đạo lớn
Sớm
phát tâm vô thượng (1 lạy)
- Ý nghĩa hiển bày:
o Đây là lời phát
nguyện quy y Phật – bậc Giác ngộ viên mãn, thầy chỉ đường cho muôn loài.
Người đệ tử quy y Phật thì lấy Phật làm thầy, nguyện học theo hạnh giác ngộ của
Ngài.
o Cầu cho chúng sanh: Không chỉ riêng
mình, mà tất cả chúng sanh đều nhận ra con đường giải thoát, khởi phát tâm Vô
thượng Bồ-đề (tâm cầu thành Phật để độ tất cả).
- Mật nghĩa: “Thể nhận đạo lớn” tức thấy tự tánh Phật nơi
chính mình. Quy y Phật không phải chỉ hướng về một đức Phật ngoài ta, mà
chính là nhận ra bản tâm thanh tịnh giác ngộ sẵn đủ.
2.
Con về nương tựa Pháp
Con
về nương tựa pháp
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thấu
hiểu được giáo pháp
Trí
tuệ như biển lớn (1 lạy)
- Ý nghĩa hiển bày:
o Quy y Pháp tức
là nương tựa vào chân lý, vào giáo pháp do Phật chỉ dạy. Nhờ đó mà diệt vô
minh, xa khổ não.
o Cầu cho chúng sanh: Mong mọi loài đều
được nghe, hiểu, và thực hành đúng chánh pháp.
- Mật nghĩa: “Trí tuệ như biển lớn” ám chỉ trí tuệ Bát-nhã – không
bờ mé, có thể soi chiếu và dung chứa tất cả, phá mọi tà kiến, đưa đến giải
thoát.
3.
Con về nương tựa Tăng
Con
về nương tựa Tăng
Cầu
nguyện cho chúng sanh
Thống
nhiếp cả muôn loài
Tất
cả không ngăn ngại (1 lạy)
- Ý nghĩa hiển bày:
o Quy y Tăng tức
là quay về với đoàn thể thanh tịnh hòa hợp, những người tu hành đúng chánh
pháp, nêu gương cho đời.
o Cầu cho chúng sanh: Mong tất cả đều hòa
thuận, không phân ly, cùng đi trên đường đạo.
- Mật nghĩa: “Thống nhiếp cả muôn loài” là hình ảnh đại Tăng
thanh tịnh (Thanh tịnh Đại Hải Chúng) nơi Cực Lạc. Nương vào Tăng tức
cũng chính là nương vào đức thanh tịnh và hòa hợp nơi tâm mình.
4.
Nguyện đem công đức này
Nguyện
đem công đức này
Hướng
về khắp tất cả
Đệ
tử và chúng sanh
Đều
trọn thành Phật đạo (1 lạy)
- Đây là hồi hướng, dâng
tất cả công đức tu tập lên khắp pháp giới.
- Ý nghĩa hiển bày: Không giữ công đức riêng cho mình, mà nguyện chia đều
cho tất cả chúng sanh – đây là hạnh Bồ-tát.
- Mật nghĩa: Khi tâm không còn phân biệt “ta – người”, thì công
đức trở thành vô lượng. Hồi hướng chính là chuyển cái tâm chấp ngã
thành tâm bình đẳng đại bi.
Như vậy, phần Tự quy
vừa là Tam quy y (Phật – Pháp – Tăng), vừa là hồi hướng. Tụng vào
cuối buổi lễ để:
1.
Ấn chứng rằng suốt thời tu
tập là nương tựa Tam Bảo.
2.
Dứt điểm mọi phân biệt ngã
– nhân, gom công đức hướng về Phật đạo.
3.
Nhắc nhở hành giả rằng cứu
cánh không phải chỉ cầu phước riêng, mà là thành tựu trí tuệ – từ bi, đồng thành
Phật đạo với tất cả chúng sanh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét